Ngan thuộc lớp động vật chân màng, là loại thuỷ cầm có tốc độ sinh trưởng phát triển nhanh. Nông dân tỉnh ta thường nuôi ngan theo phương thức chăn thả. Từ khi thức ăn hỗn hợp viên ra đời và có dịch vụ trên thị trường. Một số gia đình đã mở ra hướng nuôi ngan tập trung theo phương thức nuôi nhốt hoặc vừa nhốt vừa thả.
Ngan
1. Giống ngan nội
Ngan nội hay còn gọi là ngan dé, ngan cỏ nuôi 3 tháng tuổi trọng lượng con mái đạt 1,8 - 2,2 kg, con trống đạt 3 - 3,5 kg. Sản lượng trứng là 60 - 80 quả/mái trong một năm. Mỗi năm thường đẻ 4 lứa, mỗi lứa từ 15 - 20 quả rồi lại ấp và nuôi con.
2. Giống ngan Pháp
Được Trung tâm Khuyến nông tỉnh Nghệ An nhập về từ năm 1998 và hàng năm được nhập về với số lượng ít, đã phân biệt trống mái từ khi mới nở, phân bổ đều cho các huyện chăn nuôi nhân giống. Ngan Pháp có tính thích nghi cao với điều kiện tỉnh ta nên dễ nuôi, ít bệnh. Ngan Pháp nuôi 3 tháng trọng lượng 4,2 - 4,8kg, con mái đạt 2,3 - 2,8 kg. Tiêu tốn thức ăn 2,7 - 2,8 kg thức ăn cho một kg tăng trọng. Hiện nay Tỉnh ta đã nhập 2 dòng là dòng R31 màu lông đen và dòng R51 màu lông trắng, sản lượng trứng 160 quả/mái/2 chu kỳ đẻ trong một năm.
3. Vịt lai ngan
Như trên đã nêu dùng ngan trống lai với vịt cho ra thế hệ vịt lai ngan nuôi thịt, con lai trống và mái bằng nhau. Khi mái trưởng thành 3 tháng tuổi trọng lượng đạt từ 2,5 - 3,5 kg.
Nếu lấy vịt trống lai với ngan mái. Con lai nở ra, khi nuôi thịt, con trống to nhưng con mái sẽ nhỏ. Được 3 tháng tuổi con trống đạt trọng lượng 3 - 3,5 kg, con mái đạt 2 - 2,2 kg. Cả trống và mái của vịt lai ngan đều bất dục.
Để chăn nuôi những giống này đạt hiệu quả cao cần phải thực hiện một số khâu kỹ thuật sau :
NUÔI NGAN TỪ 1 – 56 NGÀY TUỔI
1. Chuẩn bị chuồng nuôi:
Trước khi nhận ngan về nuôi phải dọn sạch chuồng, nền chuồng, tường, lưới. Phải quét vôi nền chuồng và xung quanh tường cao 0,8 - 1 m.
Sau khi chuồng khô cho dăm bào, trấu, rơm hoặc rạ băm nhỏ làm độn chuồng và xông bằng foocmon + thuốc tím hoặc phun crerin. Nuôi nhốt kết hợp với chăn thả phải chuẩn bị vây ràng. Có thể nuôi trên sàn lưới.
Rửa máng ăn, máng uống sạch sẽ sau đó ngâm vào dung dịch foocmôn 0,3 - 0,4% rồi để khô. Nuôi nhốt kết hợp với chăn thả nên sử dụng mẹt bằng tre hoặc nilong thay máng ăn cho ngan.
Chuồng nuôi phải thoáng mát, đủ ánh sáng, không có gió lùa.
Trước khi đưa ngan con vào phải sưởi ấm chuồng trước.
2. Nhiệt độ chuồng nuôi
Để đảm bảo cho ngan mạnh khoẻ nhiệt, độ chuồng nuôi khi ngan 1 - 3 ngày tuổi phải đạt 30 - 320C. Từ ngày tuổi thứ 4 trở đi, mỗi ngày giảm 10C cho tới khi đạt 200C.
Nhiệt độ chuồng nuôi được đo ở độ cao trên đầu ngan. Trung bình cứ 200W cho 75 con ngan và 140 con ngan cần 1 chụp sưởi. ở những nơi không có điện cần sưởi ấm bằng đèn tọa đăng, nước nóng, bếp trấu, bếp than nhưng phải hạn chế khí CO2.
3. Ẩm độ không khí
Ẩm độ thích hợp cho ngan con là 60 - 70%, song ở nước ta ẩm độ không khí rất cao có khi lên tới 80 - 90%. ẩm độ cao nguy hiểm cho ngan con, nền chuồng ướt làm cho ngan con cảm nhiễm bệnh dễ dàng, mật độ chuồng nuôi và ẩm độ không khí tỷ lệ thuận cho nên ẩm độ cao cần phải hạ thấp mật độ ngan và ngược lại. Khi độ ẩm cao cần phải đảo chất độn chuồng và cho thêm chất đôn chuồng khô hàng ngày để giữ cho ngan ấm chân và sạch lông.
4. Mật độ và độ lớn của đàn
Hai yếu tố mật độ và độ lớn của đàn tác động trực tiếp đến khả năng sinh trưởng và chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cơ cấu đàn nhỏ có thể tăng mật độ và ngược lại, nuôi nhốt kết hợp với chăn thả còn phụ thuộc vào bãi chăn thả.
Giai đoạn tuổi Hình thức nuôi Mật độ tối đa (con/m2)
1 – 10 ngày tuổi Chuồng không sân chơi 32
11 – 28 ngày tuổi Chuồng có sân chơi 18
29 – 56 ngày tuổi Nuôi nhốt 6
5. Chế độ chiếu sáng
Từ tuần lễ thứ 1 đến tuần thứ 2 chiếu sáng 24/24 h, sau đó là 18/24h. Cường độ ánh sáng cho ngan trong giai đoạn này là:
1 – 10 ngày tuổi 3W/m2
11 – 56 ngày tuổi 1,5W/m2. Trong thời gian này ban ngày sử dụng ánh sáng tự nhiên.
ở những nơi không có điện, cần thắp sáng bằng đèn dầu đảm bảo đủ ánh sáng để ngan đi lại ăn, uống một cách bình thường, chống xô đàn và đè nhau gây tỷ lệ chết cao.
6. Thông thoáng
Lượng cung cấp không khí phụ thuộc vào độ ẩm và quyết định bởi chất độn chuồng. Lượng không khí trao đổi phải đảm bảo sạch cho những khí thải của phân được đưa ra ngoài và nhiệt độ cần cho ngan ở mức cho phép. Trong giai đoạn ngan con 1 - 14 ngày tuổi, tốc độ gió không được quá 0,3 m/s.
7. Cung cấp nước uống
Ngan là loại thuỷ cầm cần rất nhiều nước uống, đảm bảo nước phải trong sạch và thường xuyên. Ngan ở tuần tuổi thứ nhất không cho uống nước lạnh dưới 10 - 120C, tuần tuổi thứ 2 và 3 không lạnh quá 6 - 8oC và cũng cần hạn chế ngan uống nước trên 20oC. Nhu cầu nước uống trung bình:
1 - 7 ngày tuổi: 120 ml/con/ngày.
8 - 14 ngày tuổi: 250 ml/con/ngày.
15 - 24 ngày tuổi: 250 ml/con/ngày.
22 - 56 ngày tuổi: 500 ml/con/ngày.
Nếu là nuôi chăn thả cho ngan uống nước những nơi nước trong, sạch, ở những nơi nhốt ngan ban đêm nên có máng nước cho ngan uống.
8. Thức ăn và nuôi dưỡng
Dùng thức ăn hỗn hợp dạng viên, hoặc thức ăn đậm đặc trộn với cơm, hoặc dùng các đơn nguyên như: Tấm, ngô, gạo lứt, đỗ tương, khô đỗ tương, cám gạo, bột cá nhạt, bột màu, bột đầu tôm, premix VTM, khoáng hoặc dùng cơm (cho ngan con). Thóc luộc, thóc sống (cho ngan choai, hậu bị, sinh sản) trộn với mồi tươi (30 - 40% tuỳ loại) như: Tôm, tép, cua, ốc, giun đất, don dắt, rạm, bọ đỏ . . . và các loại côn trùng khác. Có thể dùng bổ sung thêm rau xanh.
Chia làm 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1 - 21 ngày tuổi : Thức ăn đạt 18% đạm tiêu hoá, năng lượng 2.890 kcal.
+ Giai đoạn 22 - 56 ngày tuổi : Thức ăn đạt 16% đạm tiêu hoá, năng lượng 2.890 kcal.
Ngan thương phẩm thức ăn đạt 15% đạm tiêu hoá, năng lượng 3.000 kcal.
Không sử dụng khô dầu lạc trong khẩu phần ăn cho ngan vì dễ nhiễm Aflatoxin, riêng ngô nên sử dụng cho ngan nuôi giống không quá 20%, ngan nuôi thương phẩm không quá 30%.
Kỹ thuật cho ăn:
Trước khi cho ngan ăn phải dọn máng, quét bỏ những thức ăn thừa, hôi, thối và mốc, cho ngan ăn làm nhiều lần trong ngày để tránh rơi vãi và ôi chua, tách những con nhỏ cho ăn riêng để ngan phát triển đồng đều.
Ngan 28 ngày tuổi giữ trọng lượng trung bình ngan mái 0,6 kg, trống 0,8 kg/con. 56 ngày tuổi trung bình ngan mái 1,5 kg, trống 2,3 kg/con.
+ Giai đoạn ngan từ 1 - 29 ngày tuổi : Dùng thức ăn dạng viên hoặc gạo nấu thành cơm và trộn với thức ăn giàu đạm cho ngan ăn. Đối với ngan chăn thả khi cho ăn trên nền hoặc nilon phải rắc thức ăn đều và rộng để tất cả ngan được ăn một lúc.
Từ ngày tuổi 29 – 56 cho ăn 112 gr/con /ngày. Ở giai đoạn 29 ngày tuổi trở đi mục tiêu là giữ cho đàn ngan giống phát triển trọng lượng theo biểu đồ, vì sự sai khác về trọng lượng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến năng suất sau này. Nếu trọng lượng vượt phải giảm lượng thức ăn hàng ngày và ngược lại.
Đối với ngan nuôi thương phẩm cho ngan ăn tự do (cả nuôi nhốt và nuôi thả). Đến 63 ngày tuổi (nuôi nhốt) 84 ngày tuổi (nuôi chăn thả) là kết thúc đạt trọng lượng giết thịt.
9. Kiểm tra đàn ngan
Trạng thái đàn ngan cho phép ta đánh giá về sức khoẻ của nó :
- Ngan con phân tán đều khắp chuồng chứng tỏ đàn ngan khoẻ mạnh, thoải mái, nhiệt độ trong chuồng đạt yêu cầu.
- Ngan con dồn đống là do lạnh, nhiệt độ chuồng nuôi thấp.
- Ngan con nằm há mỏ, cánh dơ lên là do nhiệt độ chuồng nuôi quá cao
- Ngan không chơi hoặc nằm ở khu vực nhất định là chắc chắn có gió lùa.
- Ngan bị bết dính là do chuồng ẩm, chế độ nuôi dưỡng kém.
Kiểm tra sức khoẻ đàn ngan hàng ngày:
Những con ngan ốm yếu cần loại ngay ra khỏi đàn, khi đàn ngan biếng ăn, biếng uống, phân thay đổi phải báo ngay cho thú y. Kết thúc giai đoạn 56 ngày tuổi chọn giống để chuyển lên hậu bị. Để tỷ lệ đực/ mái cho các đàn giống là 1/4.
5. Định mức về thuốc thú y.
- Dịch tả ngan - vịt : 5.000đ/con/năm.
- Thuốc phòng tụ huyết trùng. 1.000đ/con/năm
- Thuốc điều trị các bệnh khác : 1.000 đ/con/năm.
Tổng cộng: 7.000 đ/con/năm.
6. Một số chỉ tiêu kinh tế của ngan Pháp và ngan nội.
- Số trứng đẻ trong 1 năm ngan Pháp : 164 quả; ngan Nội : 80 - 90 quả.
- Ngan Pháp đã khử gen tính đòi ấp. Tuy nhiên chưa triệt để khoảng 10% vẫn còn tính đòi ấp.
- Dòng R31 chậm đẻ hơn so với dòng R31 (ngan Pháp)
Long Đỉnh, 06/09/2004
Chuồng nuôi: thường nuôi trên chuồng sàn gạch, sàn xi măng, sàn dưới, mật độ thay đổi theo lứa tuổi. Tuần thứ 1: 14 - 15 con/m2, tuần thứ 2: 10 - 12 con/m2, tuần thứ 3: 6 - 7 con/m2, các chất độn chuồng thường sử dụng: trấu, rơm, cỏ khô. Trong 3 tuần đầu có thể không cần sử dụng chất độn chuồng. Từ tuần 4 trở đi lần đầu rải chất độn chuồng dày khoảng 8 - 10 cm. Sau đó định kỳ rải thêm chất độn chuồng khô (tùy mức độ dơ của chất độn chuồng).
Nhiệt độ chuồng nuôi: nên bố trí sao cho nhiệt độ chuồng nuôi ổn định, nhất là trong thời gian 3 tuần đầu tiên. Nhiệt độ thích hợp trong ô chuồng 3 tuần đầu tiên như sau: Tuần thứ 1: 25 – 30 0C, tuần thứ 2 và thứ 3 là 23 -17 0C. Có thể dùng bóng đèn điện, lò sưởi điện, sưởi ga để sưởi ấm. Vịt Xiêm cần chiếu sáng liên tục trong ngày. Có thể sử dụng một bóng đèn điện 60W chiếu sáng cho 12 m2 nền chuồng.
Máng ăn: dùng máng ăn tự động, đổ thức ăn vào máng mỗi ngày một lần.
Thức ăn hỗn hợp và nước uống ở từng giai đoạn nuôi:
Tuần 1, lượng thức ăn bình quân 30g/con/ngày, nước uống 0,22 lít/con/ngày; tuần 2: 110 g, 0,6 lít, tuần thứ 3: 170 g – 0,66 lít, tuần thứ 4: 190 g, 0,68 lít, tuần thứ 5: 210 g, 0,85 lít, tuần thứ 6: 230 g, 1,2 lít, tuần thứ 7-8: 260 g, 1,5 lít.
Chương trình phòng bệnh:
+ 1 - 2 ngày tuổi: phòng bệnh viêm rốn, E.coli, thương hàn, tăng cường chức năng gan. Sử dụng Imequyl 20%, liều dùng 1 ml cho 15 kg thể trọng, Heparenol (2 ml/lít nước uống).
+ 5 - 7 ngày tuổi: pha Vitaperros vào nước uống để cung cấp các loại vitamin cần thiết, liều dùng 1 g/10 lít nước uống.
+ 10 ngày tuổi: tiêm dưới da hay tiêm bắp vacxin dịch tả vịt Vaxiduk với liều dùng 0,5 ml/con.
+ 14 - 15 ngày tuổi: pha vào nước uống để bổ sung chất khoáng và giải độc tố nấm Vetophos (5 ml/lít), Heparenol (2 ml/lít).
+ 21 - 23 ngày tuổi: pha vào nước uống Super Layer (2 g/lít) để cung cấp Vitamin, nhất là Vitamin nhóm B.
+ 28 ngày tuổi: tái chủng ngừa vacxin dịch tả Vaxiduk, tiêm dưới da hay tiêm bắp với liều dùng 0,5 ml/con
+ 29 - 30 ngày tuổi: chống stress, giải độc gan và tăng cường chức năng thận bằng cách pha vào nước uống Phosretic (1g/lít), Heparenol (2ml/lít)
+ 35 - 36 ngày tuổi: pha vào nước uống Vitaperos (1 g/10 lít) để bổ sung các Vitamin
+ 43 - 45 ngày tuổi: pha vào nước uống để bổ sung chất khoáng và giải độc tố nấm Vetophos (5 ml/lít), Heparenol (2ml/lít).
+ 56 - 57 ngày tuổi: pha vào nước uống Vitaperos (1 g/10 lít)
Khoa học và Đời sống số 4/2004, tr. 76 - 77
Nhằm đa dạng hoá vật nuôi trên địa bàn thành phố, nâng cao chất lượng thịt, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, Phòng kinh tế Thành phố Quảng Ngãi đã thực hiện mô hình nuôi thí điểm vịt xiêm Pháp, góp phần giúp người dân xoá đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống.
Mô hình được thực hiện với quy mô 1.000 con vịt xiêm Pháp, giống R51, với 23 hộ tham gia tại các xã, phường: Nghĩa Dõng, Nghĩa Dũng, Nghĩa Lộ, Quảng Phú… thành phố Quảng Ngãi. Sau thời gian nuôi từ tháng 4/2010 đến nay, đàn vịt tại các hộ dân đều phát triển tốt, khả năng kháng bệnh của đàn vịt tốt, ít bệnh tật, tăng trưởng nhanh. Điều đó cho thấy, giống vịt xiêm Pháp có khả năng thích nghi và phát triển trong điều kiện địa hình, khí hậu tại Quảng Ngãi.
Với phương thức nuôi nhốt kết hợp chăn thả trong vườn nhà, ông Hồ Văn Ban, tổ 1, Phường Nghĩa Lộ, Tp. Quảng Ngãi có thể tận dụng được các phụ phẩm nông nghiệp có sẵn tại gia đình để làm thức ăn cho vịt như bèo, lúa, rau muống… nên chi phí đầu tư mua thức ăn thấp, chuồng trại nuôi vịt lại đơn giản, thời gian nuôi vịt xiêm Pháp ngắn, tăng trọng nhanh. Sau 4 tháng nuôi, vịt xiêm Pháp đạt trọng lượng 2,5-3 kg, thậm chí có con lên đến 4kg; trong khi đó để đạt trọng lượng như vậy vịt xiêm địa phương phải nuôi đến 6-7 tháng; do đó người nuôi vịt xiêm Pháp rất có lãi. Hiện nay, giá thành vịt xiêm Pháp bán thịt khá cao, khoảng 50.000 đồng/kg. Trung bình, một con vịt khoảng 3kg, người dân đã có 150.000 đồng, đây là một nguồn thu nhập không nhỏ cho các hộ chăn nuôi.
Bên cạnh mô hình nuôi vịt xiêm Pháp trên cạn theo phương thức nuôi nhốt kết hợp chăn thả trong vườn nhà, thì tại hộ ông Đỗ Thanh Hải thôn 1 xã Nghĩa Dũng, Tp. Quảng Ngãi mô hình nuôi vịt xiêm Pháp dưới ruộng lúa cũng được thử nghiệm và đem lại hiệu quả. Tận dụng diện tích đất trũng, ngập nước quanh năm chỉ trồng được một vụ lúa, anh Hải vừa thả nuôi 30 con vịt xiêm Pháp kết hợp thả 2.000 con cá diêu hồng và 2.000 cá chim trắng; 6.000 con tôm càng xanh. Đến nay, sau 4 tháng nuôi, vịt đạt trọng lượng từ 3,5-4 kg/con; cá đạt trọng lượng 10 con/kg; tôm phát triển tốt. Với phương thức nuôi này, anh Hải vừa tận dụng được diện tích mặt nước, vừa tận dụng triệt để được nguồn thức ăn dư thừa của đàn vịt nên môi trường nước không bị ô nhiễm. Hiện tại, ông để lại toàn bộ con mái trong đàn để lấy giống phát triển qui mô nuôi.
Theo khuyến cáo của ThS. Phạm Mạnh Cường, cán bộ kỹ thuật phòng Kinh tế Tp. Quảng Ngãi, với điều kiện thời tiết ở tỉnh ta rất phù hợp để triển khai nhân rộng mô hình nuôi vịt xiêm Pháp. Giống vịt này có thể nuôi được quanh năm nhưng quan trọng nhất là cần chú ý tới công tác vệ sinh phòng dịch, nhất là giai đoạn vịt con. Vệ sinh chuồng nuôi hàng ngày, máng uống, máng ăn sạch sẽ, thay chất độn chuồng, thay nước sạch cho vịt uống và tắm. Vịt nuôi tập trung lâu ngày vi trùng tích lũy cao, mầm bệnh có thể phát sinh bất cứ lúc nào nên người nuôi phải tuân thủ nghiêm ngặt lịch chích ngừa vacxin cúm gia cầm và các vacxin phòng bệnh khác. Vào giai đoạn vịt 10 ngày tuổi và 28 ngày tuổi phải tiêm phòng dịch tả vịt bằng Vaxiduk với liều dùng 0,5ml/con. Đồng thời, bổ sung các vitamin cần thiết và khoáng chất. Thường xuyên kiểm tra đàn vịt, những con ốm yếu cần loại ngay khỏi đàn. Khi vịt biếng ăn, biếng uống, phân thay đổi phải báo ngay cho cán bộ kỹ thuật xử lý. Vào ngày lạnh giá tránh thả vịt giống nhằm hạn chế tổn thất. Vịt con trong 1 tháng đầu nên sử dụng thức ăn viên công nghiệp để vịt mau lớn, giảm tỉ lệ hao hụt, sau đó có thể cho vịt ăn tạp, tận dụng các loại phụ, phế phẩm như cám, xác đậu nành, bã mì, rau, bèo băm nhuyễn… Nuôi vịt xiêm Pháp không khó, tuy nhiên để nuôi thành công bà con cần phải tuân thủ đúng các yêu cầu về kỹ thuật chăn nuôi giống vịt này.
Nuôi vịt xiêm Pháp tuy là mô hình mới nhưng bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân và phù hợp với điều kiện khí hậu tỉnh nhà, mô hình đã góp phần thực hiện tốt chủ trương xoá đói giảm nghèo của địa phương.
Phương Dung, Mard-30/8/2010
Nhấn vào đây để xem tất cả các thông tin kỹ thuật nuôi vịt
Việt Linh: Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, việc làm thủy sản, việc làm nông nghiệp, tuyển dụng, tìm việc, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.