Cá bống bớp là loài cá qúy cổ truyền của Việt Nam. Thịt thơm ngon và béo. Hàm lượng mỡ trong thịt của nó gấp 10 lần các loài cá kinh tế khác. Loài này cũng là một trong những loài cá xuất khẩu sống của Việt Nam sang một số nước: Trung Quốc, Hồng Kông. Trên thế giới, cá bống bớp được các nước nuôi trồng nhiều như: Ấn Độ, Srilanca, Thái Lan, các quần đảo Thái Bình Dương, Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia, Philippin, Australia.
Còn ở Việt Nam cá bống bớp được phân bố ở các tỉnh như: Quảng Ninh (Tiên Yên, Hải Phòng (Đình Vũ, Cát Hải, Đồ Sơn, Thái Bình (Cửa Lân, Nam Định (Cửa Ba Lạt, Giao An, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh (Cửa Sót, Nam Trung bộ, Tây Nam bộ, Đông Nam bộ. Sau đây là một số biện pháp kỹ thuật nuối cá bống bớp.
I.ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC.
1. Đặc điểm hình thái cấu tạo:
Cá có thân hình trụ tròn hơi dẹt bên, bắp đuôi dài khoẻ, đầu hơi dẹt bằng, thân phủ vảy rất nhỏ. Toàn thân trơn nhớt trên gốc vây đuôi có chấm đen to hình tròn hoặc hình trứng xung quanh viền trắng đây là đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt dễ dàng loài cá này với loại cá bống khác.
2. Đặc điểm phân bố và sự thích nghi với điều kiện môi trường:
* Phân bố: Cá chủ yếu phân bố ở vùng cửa sông ven biển và đầm nước lợ, nơi có độ sâu mực nước từ 0,2 -1,5m. Ngoài bãi triều thường thấy ở các bãi bùn cát nơi có nhiều thực vật thuỷ sinh phát triển.
* Điều kiện môi trường:
- Nhiệt độ: Thích hợp nhất từ 25 - 300C, tuy nhiên cá có thể chịu được nhiệt độ dưới 100C.
- Độ mặn: Cá có thể phát triển tốt ở độ mặn từ 5 - 25‰, đôi khi thấy cá xuất hiện ở những nơi có độ mặn xấp xỉ 0 hoặc > 25‰
- Oxy: Cá có khả năng thích nghi tốt với điều kiện Oxy thấp có thể lên đến 1mg/l. Khoảng tối ưu cho cá phát triển là 3mg/l, không nên quá 8mg/l.
- pH: Cá có khả năng thích ứng với pH rộng, nhưng tốt nhất 7 - 8
3. Tập tính sống:
Lúc nhỏ cá sống thành từng đàn trong hang. Cá trưởng thành sống trong hang, khi cá thành thục sinh dục hoặc khi đi kiếm ăn thì cá ra ngoài, cá có tập tính đào hang trú ẩn và đẻ trứng. Mỗi hang có từ 2 đến nhiều lỗ. Các lỗ này có vai trò lấy khí trời cho cá hô hấp khi ở trong hang thiếu oxy. Cần lưu ý tập tính này để đào đắp xử lý bờ tránh cá đi mất.
4. Tính ăn:
Cá có khả năng bắt và nuốt mồi bằng 1/10 cơ thể chúng và cũng có thể nhịn đói hàng tuần. Khi nhỏ cá ăn động vật phù du nhỏ, khi lớn cá ăn giáp xác (tôm, cua, còng…) cá ưa mồi thịt động vật hơn. Tuy nhiên vẫn có thể ăn một phần mùn bã hữu cơ, thức ăn hỗn hợp tự chế, thức ăn công nghiệp, mần thực vật non.
5. Sinh sản:
Mùa vụ sinh sản chính của cá vào tháng 4 - 8, khi thời tiết ấm áp, độ mặn thích hợp cho cá sính sản từ 15 - 17‰, nơi có thức ăn tự nhiên phong phú. Cá thành thục sau 1 năm tuổi, thụ tinh ngoài và đẻ trứng dính. Cá thường làm tổ và đào hang đẻ trứng. Sau khi đẻ, cá bố mẹ luôn canh ở cửa hang để bảo vệ. Khi trứng nở thành cá con, được cá bố mẹ bảo vệ và dẫn đàn đi kiếm mồi quanh hang.
II. KỸ THUẬT NUÔI
1. Chọn địa điểm xây dựng:
- Địa điểm nuôi thích hợp là các bãi triều chất đáy là cát bùn và thịt pha cát là tốt nhất. Mặt khác, đáy cát có kết cấu kém nên dễ bị vùi lấp nên cá không thể đào hang xuyên qua bờ được
- Nơi có độ mặn dao động trong khoảng 5-25‰.
- Nơi ít chịu ảnh hưởng của các nguồn nước thải khu công nghiệp.
- Giao thông thuận lợi cho việc cung cấp vật tư và tiêu thụ sản phẩm.
- An ninh trật tự đảm bảo.
2. Xây dựng ao nuôi:
- Diện tích thích hợp nhất 200-2000m2, ao sâu 1-1,2m. Dọc ao đào rãnh rộng 2m để thuận lợi cho việc thu hoạch. Xung quanh bờ ao cần chôn phên nứa hay lưới nilon chìm dưới nước ao 60–70cm, cũng có thể đào rãnh quanh bờ rộng 25cm sâu khoảng 60–80cm dưới mặt nước. Mỗi ao nên có 2 cống để tiện cấp và thoát nước khi cần thiết. Trong ao nên thả rong bún, rong đuôi chó, rong câu nhằm tạo môi trường mát cho cá vào mùa hè, yên tĩnh và hấp thụ các loại chất độc trong ao nuôi.
3. Chuẩn bị ao nuôi:
Hình thức cải tạo ao như sau:
- Ao nuôi được lấp hết các lổ hổng ở chân và bờ, làm sạch cỏ dại.
- Ao nuôi được tát cạn, vét bớt bùn, tu sửa lại bờ ao, cống ao, phát quang bờ ao.
- Dùng bạt lót xung quanh bờ, tránh tình trạng cá đào hang xuyên bờ đi mất.
- Tiến hành cày bừa trang phẳng đáy ao.
- Tiến hành rắc vôi với liều lượng tùy thuộc vào pH đất.
+ Đối với điều kiện ao nuôi ở vùng thường xuyên có pH cao nên bón 5 – 7kg vôi/100m2, phơi đáy 3 – 5 ngày để vôi oxy hóa các chất thải ở đáy sau đó tháo nước và ngâm 2 – 3 ngày và bơm ra.
+ Với ao có pH thấp hoặc ao mới đào cần bón lượng vôi từ 10 – 15kg/100m2 sau đó lấy nước vào ngâm 2 – 3 ngày và bơm nước chua phèn ra khỏi ao, làm như vậy liên tục 1 –2 lần đến khi môi trường ổn định kiểm tra pH trên 6,5.
+ Với ao có pH đáy trung tính không phải thau nước rửa nước vôi bón mà lấy nước mới vào ao.
Sau khi lấy nước vào ao đạt mức 1,2m, sau 3 ngày để toàn bộ trứng cá nở ra cá bột tiến hành bón saponin (hoặc khô dầu sở) với lượng 5 – 10kg/1000m2 diệt cá tạp, địch hại của cá. Vớt xác cá chết khỏi ao.
Vai trò của mầu nước giúp ngăn cản sự phát triển của tảo đáy, mặt khác cá bống bớp không thích ánh sáng, ưa sống chui rúc, nếu không có màu nước cá sẽ bị ức chế bởi ánh sáng nên cá tìm cách đào hang trú ẩn.
- Bón phân gây màu nước : Dùng 3 – 5 kg Urê và 5 – 7 kg lân/1000m2.
Khi thấy ao có màu xanh nhạt hoặc màu vàng nâu, độ trong đạt 40 – 45cm thì tiến hành thả giống.
Môi trường nước trong ao nuôi khi thả cá là: pH = 7- 8; Độ mặn: 10-15‰; Độ sâu: 0.8-1m nước.
4. Thả giống:
- Tốt nhất lấy giống đã ương trong ao đất trong khoảng thời gian hơn 1 tháng nhằm thuần hoá trước khi đưa ra ao nuôi nhằm đảm bảo tỷ lệ sống.
Mùa vụ thả giống:
+ Tốt nhất nên thả vào 2 vụ.
- Vụ 1 từ tháng 3 đến tháng 8.
- Vụ 2 từ tháng 8 đến tháng 12.
- Vụ 1 không nên thả sớm vị thời tiết đầu năm rét cá dễ bị chết nhiều.
- Kích cỡ: Nên chọn cá cỡ 5 – 8cm.
+ Nếu thả cá cỡ cá lớn 60 – 80 con/kg. Khi thu hoạch cá thương phẩm đạt cỡ 60 - 70g/con sau 3 – 4 tháng nuôi. Ưu điểm của cá giống lớn là thời gian nuôi ngắn rút ngắn được mùa vụ, không bị bệnh lở loét, xuất huyết, kích cỡ thương phẩm lớn, tỷ lệ hao hụt thấp.
+ Nếu thả cá nhỏ, thời gian nuôi dài, dịch bệnh nhiều, kích cỡ thương phẩm nhỏ, tỷ lệ hao hụt cao.
- Mật độ giống thả:
+ Nếu nuôi quảng canh: Cỡ cá giống từ 3 – 5cm. Mật độ 2 – 3 con/m2
+ Nếu nuôi bán thâm canh: Cỡ cá giống từ 3 -5cm. Mật độ 8 – 10 con/m2.
Lưu ý: Chọn cá có kích cỡ đồng đều, không bị mất nhớt, không bị bệnh tật, không dị hình, bơi lội nhanh nhẹn, phản xạ tốt.
5. Quá trình chăm sóc cho ăn:
Từ khi thả đến 30 ngày tuổi, cho ăn 3-4 kg moi, cá tạp băm nhỏ/100kg giống, sau đó điều chỉnh tăng giảm theo tốc độ tăng trưởng của đàn cá. Để chủ động nguồn thức ăn tươi sống trong thời gian biển động có thể cho ăn moi khô, cá khô ngâm với nước cho mềm, ngoài ra có thể cho ăn thức ăn công nghiệp, thức ăn tự chế với hàm lượng đạm trên 20%, sàng cho ăn đặt ở vị trí cố định cách mặt nước 20-30 cm. Nếu giống cá sinh sản nhân tạo cỡ 2-3 cm, nuôi 1 vụ thì thức ăn ban đầu là cá luộc chín, gỡ xương, chà qua lưới rây bột, cho cá ăn 3-4 lần trong 10 ngày đầu Sau đó cho ăn tôm, tép tươi, cá tạp băm nhỏ cho ăn ngày 2-3 lần kết hợp dùng moi tươi băm nhỏ cho ăn khi không có thức ăn tươi.
Chú ý: Nguồn thức ăn cho cá không bị hư hỏng, ươn thối, được rửa qua nước sạch trước khi cho ăn, giảm được nguồn vi khuẩn có hại trong thức ăn. Giai đoạn 30-45 ngày tuổi vẫn phải cho ăn mồi tươi xay nhỏ, sau đó băm vụn và đến 60 ngày tuổi chọn kích cỡ thức ăn vừa cỡ để cho ăn trực tiếp.
Khi cá nhỏ, thức ăn để vào khay treo ở một vài điểm cố định, cho từ từ từng ít một để cá ăn hết, nếu thiếu thì bổ sung, thừa thì giảm đi. Giai đoạn lớn dùng còng cáy, tôm cá nhỏ cho ăn.
Giảm thức ăn vào mùa hè hay đầu mùa đông, khi nhiệt độ xuống dưới 200C hoặc trên 370C thì giảm lượng thức ăn trong ao. Khi lấy nước vào ao nếu nhiệt độ nước ổn định 28–300C sẽ cho cá ăn tăng 15% tổng trọng lượng cá có trong ao và thường xuyên thay nước mới.
Bảng1: Lượng thức ăn của cá
Cỡ cá trung bình (g/con) |
Lượng cho ăn (%trọng lượng cá) |
10 |
10 |
20 |
8 |
40 |
6 |
60 |
4 |
80 |
2 |
Trong quá trình nuôi cần phải đầu tư cho ăn có chất lượng và trọng lượng thức ăn theo quy trình đề ra nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của cá và giảm tỷ lệ hao hụt do hiện tượng ăn nhau.
6. Quản lý, chăm sóc môi trường ao nuôi:
Trong suốt quá trình nuôi phải thường xuyên theo dõi môi trường ao nuôi, kiểm tra bờ, cống để có biện pháp xử lý tránh tình trạng cá bị thất thoát .Định kỳ thay nước, cấp nước để môi trường nước trong sạch và kích thích cá tăng trưởng.
Bảng 2: Môi trường nước ao nuôi thích hợp cho cá phát triển tốt như sau
pH |
Độ trong |
Độ mặn |
Nhiệt độ |
Độ sâu ao |
7,5-8,5 |
30- 40cm |
5- 150/00 |
20-28oC |
0,8-1m |
7. Thu hoạch.
Nuôi được 6 tháng tiến hành đánh bắt, thu tỉa những con có trọng lượng lớn .
III. MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP VÀ CÁCH PHÒNG TRỊ
1. Bệnh đóng dấu (lở loét):
Bệnh thường xảy ra vào các tháng giao mùa cuối thu đầu đông và cuối xuân hè là phổ biến. Trên thân cá xuất hiện các vết loét hình tròn viền đỏ hoặc viền trắng xung quanh. Cá bị bệnh kém ăn và lây lan rất nhanh nhất là những ao nuôi bị ô nhiễm và thả cá với mật độ cao.
Phòng bệnh: Thay nước sạch thường xuyên, thức ăn tươi sống cần khử trùng bằng thuốc tím tránh cá bị lây nhiễm bệnh qua thức ăn. Dùng tỏi nghiền nhỏ trộn cùng với thức ăn cộng thêm chất kết dính như bột mỳ, bột sắn… cho ăn dùng 200g tỏi cho 100kg cá dùng liên tục trong 3 ngày liền. Định kỳ hàng tháng dùng Tiên Đắc 1 với liều lượng 25g/100kg cá/ngày. Trộn vào thức ăn cho cá ăn liên tục trong 3 ngày.
Trị bệnh: Tát cạn ao, loại bỏ cá đã bị bệnh lở loét ra. Ngoài ra, tiến hành khử trùng lại đáy ao sau đó tắm thuốc tím với lượng 30g/m3 trong 5 – 7 phút.
Dùng Tiên Đắc 1 với liều lượng 50g/100kg cá/ngày. Trộn vào thức ăn cho cá ăn liên tục trong vòng 1 tuần
2. Bệnh trướng hơi:
Dấu hiệu: Bệnh xuất hiện vào mùa hè khi thời tiết biến động bất thường, cá bị bệnh trướng bụng to, bơi lội kém, mất thăng bằng.
Phòng trị bệnh: Tương tự như bệnh lở loét, hoặc dùng Flumequin như hướng dẫn của nhà sản xuất.
3. Bệnh phỏng rạ:
Dấu hiệu: Bệnh xuất hiện quanh năm trên thân cá, xuất hiện các vết màu trắng và phổng rộp lên. Bệnh có thể tự khỏi khi môi trường thay đổi.
Nguyên nhân: Do môi trường khắc nghiệt như mưa hoặc nắng kéo dài.
Phòng bệnh: Tiến hành thay nước định kỳ, quản lý tốt chất lượng nước và màu nước trong ao nuôi, nhất là khi có sự biến động của các yếu tố môi trường.
Trị bệnh: Thay nước cho ao nuôi với lượng trên 50% cá sẽ tự khỏi.
4. Bệnh rận cá:
Dấu hiệu: Trên thân cá xuất hiện rận bám vào da hút chất dinh dưỡng làm cá chậm lớn hoặc trùng mỏ neo ký sinh vào miệng, mang, mô miền hút máu làm cá chậm lớn.
Trị bệnh: Dùng Diprex phun xuống ao với liều lượng 200-400g/1000m3, sau 3 ngày lặp lại và trùng mỏ neo sẽ chết hết.
Chú ý: Cần hạn chế dùng Diprex do chất này có tính tồn lưu và gây ung thư da. Hoặc dùng Hadaclin của công ty bayer cho ăn như hướng dẫn của nhà sản xuất.
Bùi Mạnh Hùng, Trung tâm Khuyến nông Thanh Hoá, Sở KHCN Thanh Hóa, 28/1/2010
Kỹ thuật nuôi cá bớp (Boleopthalmus chinensis)
Cá bớp là một loài cá bống nước lợ. Nó là loài có kích thước
nhỏ. Cá trưởng thành có chiều dài thân 12 - 15 cm, khối lượng
20 - 40 g. Sản lượng không nhiều, tuy vậy ở một số thị trường
như Hồng Kông, Ðài Loan ... rất được ưa chuộng có giá cao
nhất. Nếu có sản lượng cao có khả năng xuất khẩu.
Cá bớp (Boleopthalmus chinensis) thường thấy trên các bãi bùn
và cát thuộc vùng triều. Cá đào hang có hai lỗ hoặc hơn dùng làm
nơi trú ẩn và đẻ trứng. Lúc triều xuống chúng rời hang và lướt
trên bùn hoặc trên đá để kiếm ăn, chúng ăn tảo ở đáy, chủ
yếu là tảo silic.
Trước đây sản lượng cá bớp có trên thị trường là từ
khai thác trong tự nhiên. Do có giá bán cao mà sản lượng trong tự
nhiên lại có hạn nên gần đây nhiều nơi đã tìm cách nuôi loài
cá này.
Nuôi cá bớp trong ao:
- Lấy cá giống :
Mùa sinh sản của cá bớp là từ tháng tư đến tháng chín.
Phần lớn cá giống thu được trong tự nhiên là vào các tháng 7
đến tháng 8. Có thể bắt chúng trong các vũng nước trên bùn
hoặc cát ở các bờ dọc cửa sông khi nước triều xuống. Chiều
dài thân cá 1,5 - 3,0cm, chúng có nhiều ở vùng nước lợ. Người
ta dùng vợt bắt chúng trong các vũng nước đem về nuôi.
- Ao nuôi :
Ao nuôi cá bớp thường là nhỏ cỡ từ 0,1 - 1ha. Bờ ao phải có
đăng chắn đề phòng cá thoát đi và các loài ăn hại xâm nhập.
Ðể tiện việc tháo cạn nước ao và phơi ao, độ cao của đáy
ao phải ở trên mực nước trung bình. Cần có rãnh ở giữa ao
rộng 2m hướng về phía cửa cống, theo chiều dài ao để tiện
việc tháo cạn nước và làm nơi trú ẩn cho cá vào những ngày
nắng to. Ðáy ao là đất thịt để các loài tảo ở đáy phát
triển tốt và hố do cá đào ở trên đáy ao đất thịt không bị
san bằng đi như trên đất cát.
- Xử lý ao trước khi thả cá :
Vì cá bớp ăn tảo ở đáy vì vậy cần làm cho tảo phát
triển tốt trước khi thả cá. Ðể làm được việc đó cần phơi
đáy ao và bón phân. Ðối với ao mới đào bón 600 kg phân chồng
mỗi ha, có thể cho thêm cám gạo, cho nước biển có độ mặn
thấp, giữ độ sâu 15cm. Tảo silic và tảo lam sẽ phát triển ở
đáy ao.
Ốc và ấu trùng giun ít tơ (Chironomid) là những loài ăn tảo
ở đáy vì vậy phải trừ diệt bằng Bayluscide 0,3 ppm (phần
triệu) và loài thứ hai bằng Abate 0,25 ppm, Sumithion 0,3 ppm hoặc
Lebaycid 0,25 ppm.
- Thả giống :
Mật độ thả cá giống là 30.000 con/ha, tối đa là 50.000, cá
bớp khi đã thả xuống ao thì khó mà bắt lại được, việc phân
biệt kích cỡ thả cũng không cần thiết. Cá bớp không bao giờ
ăn thịt lẫn nhau.
- Quản lý ao :
Nước ao cần được giữ sạch và nông để ánh nắng xuyên
suốt tận đáy. Thời kỳ đầu nước ao giữ ở mức 15 cm (ở rãnh
sâu 30cm). Lúc đó cá cỡ nhỏ và chỉ đào được hố cạn, vì
vậy chưa cần xử lý ao sau 45 ngày khi cá đạt cỡ trên 5 cm, chúng
đào những hố sâu hơn để trú ẩn và đáy nền của tảo bị hư
hại. Lúc đó cần tháo cạn nước (trừ một ít nước lưu lại
trong rãnh) và phơi nắng 3 - 6 ngày. Sau đó bón phân bắc, cám gạo
v.v... Cho nước lợ vào ao, lớp tảo đáy lại được hình thành.
Trong quá trình xử lý cá bớp sẽ ẩn náu trong hố của chúng.
Vì vậy, khi bón phân phải cẩn thận, tránh dồn cả khối phân bón
nhiều lấp cả hố, làm cá chết. Pha trộn phân với nước biển
đưa vào ao thì an toàn hơn và cũng đạt được mục đích phân bón.
Sau đó mực nước lại giảm xuống 2 đến 7 cm.
Cá bớp sinh trưởng tốt nhất ở nhiệt độ trên 28oC. Chúng
ngừng sinh trưởng khi nhiệt độ xuống dưới 14oC.
- Ðịch hại :
Ðịch hại phổ biến là cá (rô phi, cá rô ... ) cần được
diệt trừ khi phơi ao và lọc nước vào ao, chim (cần xua đuổi) và
cua (cần có đăng chắn).
- Thu hoạch và thương mại :
Cá bớp nuôi từ 1 đến 2 năm để đạt được quy cỡ thương
phẩm tuỳ thuộc điều kiện ao và cách quản lý. Cỡ thương
phẩm nhỏ nhất là 24g, cỡ lớn nhất đạt 40g, tỷ lệ sống 60%.
Kỹ thuật thu hoạch là dùng lờ trê chắn ở lối chính vào hố
của cá để đơm cá. Cũng có thể dùng lưới vó chắn ở cửa
lấy nước. Khi tháo nước vào ao, cá tập trung ngay trên vó, kéo lưới
lên bắt cá.
Có thể vận chuyển cá bớp đường dài bằng cách chứa chúng
với một ít nước ở nhiệt độ thích hợp.
- Sinh sản nhân tạo :
Ở Ðài Loan từ đầu những năm 1970 người ta bắt đầu
thử nghiệm cho đẻ nhân tạo cá bớp. Cá bố mẹ có chiều dài
10-20cm. Cá được chứa trong bể nhựa và cho các ống chất dẻo làm
chỗ ẩn náu cho cá. Cho nước vào bể đủ để ngập lỗ mũi cá.
Cá cái được tiêm từ 1/2 đến 1 não thuỷ thể cá chép và
Synahorin với 5-10 đơn vị thỏ. Ngày thứ 3 thì tiêm đợt 2. Ngày
thứ 4 cá bắt đầu đẻ. Mỗi con cái có thể thu hoạch được trên
10.000 trứng. Trứng có hình cầu và mầu vàng nhạt, đường kính
0,5-0,6mm. Trứng chìm và dính.
Lấy tinh dịch bằng cách mổ cá đực, lấy dịch hoàn rồi
cắt thành mảnh nhỏ, trộn đều với trứng. Trứng đã được
thụ tinh đem rửa bằng nước biển có độ mặn 14,9-18,5%o nhiều
lần ở nhiệt độ 28oC phải mất 65 giờ mới nở.
Theo Thông tin KHCN Thuỷ Sản Ninh Thuận
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Việt Linh: Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, việc làm thủy sản, việc làm nông nghiệp, tuyển dụng, tìm việc, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.