Sau thành công sinh sản nhân tạo cá hô, Trung tâm quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam bộ tiếp tục nghiên cứu sinh sản nhiều giống cá quý có nguy cơ tuyệt chủng khác. Cá cóc, loài cá đặc sản ngon nổi tiếng của miền Tây, đã được trung tâm cho sinh sản nhân tạo và đưa vào nuôi thương phẩm thành công.
Sinh sản nhân tạo cá quý
Ngoài tự nhiên, cá cóc có kích thước lớn, có thể dài tới 80 cm, nặng khoảng 10 kg. Thịt cá cóc thơm ngon rất được ưa chuộng, bán 60.000 - 100.000 đồng/kg, nên cá luôn bị săn bắt ráo riết, đến nay gần như cạn kiệt. Cá cóc (Cyclocheilichthys enoplos, thuộc họ cá chép Cyprinidae), hiện diện ở Lào, Thái Lan, Campuchia, Indonesia và ở sông Tiền, sông Hậu của Việt Nam. Cá thích nghi với điều kiện nước chảy và có tập tính di cư sinh sản. Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, cá cóc thường được khai thác quanh năm ở sông Tiền và sông Hậu bằng câu, lưới, chài, đáy và đóng chà ven sông.
Cá cóc đã được nuôi ghép trong ao và bè với các loài cá khác. Cá có tốc độ tăng trưởng từ chậm đến trung bình. Trước đây cá cóc chưa được nuôi phổ biến do nguồn cá giống phụ thuộc vào việc đánh bắt từ tự nhiên, với sức chịu đựng rất kém, nhất là khi vận chuyển đi xa. Cá yếu và dễ chết khi rời khỏi môi trường nước chảy (sông). Tuy vậy sau khi thuần dưỡng cá cũng thích nghi được với điều kiện nước tĩnh hoặc sống được trong bè nuôi với mật độ cao như cá tra, cá he, rô phi…
TS. Phạm Văn Khánh, giám đốc Trung tâm quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam bộ cho biết, hiện nay nghề nuôi cá nước ngọt ngày càng phát triển, nên nhu cầu về cá giống ngày càng đa dạng. Cá cóc là một trong những loài cá có thể nuôi trong ao, bè, đăng quầng. Nghiên cứu sinh sản nhân tạo để sản xuất giống cá cóc nhằm bổ sung giống loài mới vào cơ cấu đàn cá nuôi là việc làm cần thiết, đồng thời còn góp phần gìn giữ nguồn gen loài cá đang ngày càng trở nên hiếm hoi.
Nuôi cá cóc thương phẩm
Hạn chế hiện nay khi nuôi thương phẩm là cá chậm lớn, trong năm đầu tiên cá có thể tăng trọng chậm. Do nuôi trong điều kiện nước chảy, cá không kịp ăn trước khi thức ăn đã bị trôi đi mất, dẫn đến hao hụt và giảm hiệu quả kinh tế. Nuôi trong bè, nên thả cá có kích cỡ lớn từ 100 g trở lên. Thả ghép với cá khác thì cá lớn nhanh hơn. Cá cóc có đặc tính ăn thiên về động vật.
Nuôi đơn trong ao
Ao nuôi có diện tích từ 500 m2 trở lên, có cống chủ động cấp, thoát nước, được chắn lưới chắc chắn để cá không thoát ra ngoài và sinh vật gây hại không lọt vào ao; có độ sâu từ 1,5 - 2 m, nhiệt độ 26 - 300C, pH 7 - 8, hàm lượng oxy hòa tan trên 2 mg/lít.
Tát cạn ao, vét bớt bùn đáy, rải vôi bột xuống đáy và mái bờ ao (7 - 10 kg/100 m2), phơi đáy ao.
Dọn sạch cỏ bờ, lấp hết hang hốc cua, rắn, chuột. Dẫn nước vào ao qua lưới chắn lọc.
Cá cóc giống dùng nuôi cá thương phẩm phải khỏe mạnh, bơi nhanh nhẹn, có màu sắc tươi, vây và vảy hoàn chỉnh, không sây sát, không bị mất nhớt. Ở các tỉnh Nam bộ, do thời tiết và khí hậu thuận lợi, có thể nuôi quanh năm với cá giống lớn cỡ 5 - 6 cm (4 - 5 g/con), mật độ nuôi 1 - 2 con/m2, trước khi thả được tắm nước muối 3% trong 5 - 6 phút để diệt các ký sinh trùng bám trên thân cá và làm lành nhanh các vết sây sát. Có thể sử dụng thức ăn tự chế biến và thức ăn viên công nghiệp. Nguyên liệu thức ăn tự chế biến gồm:
TT | Loại nguyên liệu |
Tỷ lệ (%) các tháng sau |
Tỷ lệ (%) các tháng sau |
1 2 3 4 |
Cám gạo hoặc tấm Cá vụn (hoặc đầu tôm cá, phụ phẩm lò mổ) Bánh dầu Premix khoáng/vitamin |
45 50 4,8 0,2 |
45 40 14,8 0,2 |
Nguyên liệu được xay nhuyễn, nấu chín, để nguội và đưa xuống sàn cho cá ăn. Khẩu phần ăn bằng 4 - 5% trọng lượng cá/ngày.
Thức ăn viên công nghiệp là loại có hàm lượng đạm 25 - 30%. Trong 3 tháng đầu tiên dùng thức ăn có kích cỡ nhỏ vừa với cỡ miệng cá với hàm lượng đạm 30%. Từ tháng thứ tư cho thức ăn có kích cỡ lớn hơn, với hàm lượng đạm 25%. Khẩu phần ăn từ 1,8 - 2% trọng lượng cá/ngày. Cho cá ăn 2 lần/ngày (sáng 7 - 8 giờ, chiều 17 - 18 giờ). Thường xuyên kiểm tra và ước lượng trọng lượng đàn cá để cung cấp thức ăn đầy đủ.
Theo dõi mức độ ăn của cá để điều chỉnh lượng thức ăn hàng ngày hợp lý. Thường xuyên kiểm tra ao để phát hiện và xử lý kịp thời các sự cố bất thường như ao bị rò rỉ nước, bờ sụt lở, đăng cống hư hỏng. Thay nước hàng tuần, mỗi lần 15 - 20% thể tích nước trong ao.
Khi cá có hiện tượng khác thường, nhanh chóng xác định nguyên nhân để xử lý, đồng thời cho nước mới vào ao và tạm thời ngưng cho ăn. Để khử trùng nước ao, có thể sử dụng chế phẩm vi sinh hoặc formalin pha loãng 30 ppm tạt đều mặt nước ao theo chỉ dẫn. Sử dụng các loại thuốc và hóa chất phòng trị bệnh phải theo đúng chỉ dẫn. Không sử dụng thuốc và hóa chất bị cấm.
Nuôi ghép cá cóc trong ao, đăng quầng và bè
Có thể nuôi ghép cá cóc với các loài cá khác như cá tra, cá rô phi. Thức ăn cho những loài cá khác cũng giống như của cá cóc. Cỡ cá nuôi 6 - 7 cm (4 - 5 g/con) hoặc cá có kích cỡ lớn 100 g/con trở lên. Mật độ nuôi ghép trong ao là 0,5 con/m2, trong bè 1 - 2 con/m3. Thức ăn và thời gian nuôi tùy thuộc vào loài cá nuôi chính.
Thu hoạch
Cá nuôi đơn trong ao sau 12 - 15 tháng thì thu hoạch, khi cá đạt từ 200 đến 300 g/con. Thu đồng loạt trong thời gian ngắn. Những cá chưa đạt cỡ thương phẩm nên để nuôi tiếp cho vụ sau. Sau vụ thu hoạch phải tát cạn ao và chuẩn bị cho vụ nuôi kế tiếp.
Cá nuôi ghép trong ao, đăng quầng và trong bè thì thu hoạch một lần cùng với cá chính. Nếu kích cỡ khi thả nuôi quá nhỏ, khi thu hoạch các loài cá nuôi chính, có thể thu tỉa những cá cóc đạt quy cỡ thương phẩm (300 g trở lên), số còn nuôi tiếp ở vụ sau. Nước thải của ao nuôi phải được xử lý trước khi thải ra môi trường.
PHƯƠNG DUY ( Khoa học phổ thông, 21/11/2008)
Kỹ thuật nuôi thương phẩm cá cóc
Ao nuôi có diện tích từ 500 m2 trở lên. Ao phải có cống để chủ động cấp, thoát nước dễ dàng. Cống ao được chắn lưới chắc chắn để cá không thoát ra ngoài và địch hại của cá không lọt vào ao. Các chỉ tiêu chủ yếu của môi trường ao như sau:
Độ sâu nước từ 1,5 - 2 m. Nhiệt độ nước ao: 26 - 300C. pH thích hợp: 7 - 8. Hàm lượng oxy hòa tan trên 2 mg/lít.
Chuẩn bị ao nuôi: Tát cạn ao, vét bớt bùn đáy, rải vôi bột đáy và mái bờ ao (7 - 10 kg/100 m2), phơi đáy ao. Dọn sạch cỏ bờ, lấp hết hang hốc cua, rắn, chuột. Lấy nước vào ao qua lưới chắn lọc.
Thả cá giống: Cá giống phải đạt yêu cầu chất lượng: khỏe mạnh, bơi nhanh nhẹn, màu sắc tươi sáng, vây vẩy hoàn chỉnh, không sây sát, không bị mất nhớt. Ở các tỉnh Nam Bộ do thời tiết và khí hậu thuận lợi nên có thể nuôi quanh năm. Cỡ cá giống: 6 - 7 cm (4 - 5 gram/con), mật độ nuôi: 8 - 10 con/m2. Cá trước khi thả xuống ao được tắm nước muối 3% trong thời gian từ 5 - 6 phút để diệt các ký sinh trùng bám trên thân cá và làm lành nhanh các vết thương hoặc vết sây sát.
Quản lý chăm sóc
Có thể sử dụng hai loại thức ăn cho cá: thức ăn tự chế biến và thức ăn viên công nghiệp.
Thức ăn tự chế biến: các nguyên liệu để chế biến thức ăn có thể căn cứ theo bảng 1:
Các nguyên liệu được xay nhuyễn, nấu chín, để nguội và đưa xuống sàn cho cá ăn. Sàn ăn có kích thước 1 x 3 - 4 m, mỗi ao nên đặt từ 3 - 4 sàn cho cá được ăn đều. Khẩu phần ăn bằng 4 - 5% trọng lượng cá/ngày.
Sử dụng thức ăn viên công nghiệp: loại thức ăn có hàm lượng đạm 25 - 30%. Trong 3 tháng đầu tiên dùng thức ăn có kích cỡ nhỏ vừa với cỡ miệng cá, hàm lượng đạm 30%. Từ tháng thứ tư cho thức ăn có kích cỡ lớn hơn, hàm lượng đạm 25%. Khẩu phần ăn từ 2 - 2,5% trọng lượng cá/ngày. Cho cá ăn 2 lần/ngày. Sáng 7 - 8 giờ và chiều 17 - 18 giờ. Thường xuyên kiểm tra và ước lượng tương đối đúng trọng lượng đàn cá để cung cấp thức ăn đầy đủ.
Quản lý ao nuôi
Theo dõi mức độ ăn của cá để điều chỉnh lượng thức ăn hàng ngày hợp lý. Thường xuyên kiểm tra ao để phát hiện và xử lý kịp thời các sự cố bất thường như ao bị rò rỉ nước, bờ sụt lở, đăng cống hư hỏng. Thay nước hàng tuần, mỗi lần thay 15 - 20% thể tích nước trong ao. Khi cá có hiện tượng khác thường, nhanh chóng xác định nguyên nhân để xử lý, đồng thời cho nước mới vào ao, tạm thời ngưng cho ăn.
Phòng bệnh
Để khử trùng nước ao có thể sử dụng chế phẩm vi sinh hoặc formalin pha loãng tạt đều mặt nước ao theo liều lượng chỉ dẫn trên bao bì. Không sử dụng thuốc và hóa chất bị cấm theo các quyết định của Bộ Thủy sản.
Cá nuôi đơn trong ao, sau 12 - 15 tháng thì thu hoạch. Cá cóc có thể đạt cỡ từ 400 - 600 gram/con. Thu đồng loạt và trong thời gian ngắn. Những cá chưa đạt cỡ thương phẩm nên để nuôi tiếp cho vụ sau. Sau vụ thu hoạch phải tát cạn ao và làm công tác chuẩn bị cho vụ nuôi kế tiếp.
Nuôi ghép trong ao, đăng quầng, bè
Hình thức nuôi ghép: có thể nuôi ghép cá cóc với các loài cá chính khác trong ao, đăng quầng và trong bè, như cá tra, rô phi. Thức ăn cho những loài cá nuôi chính cũng giống như của cá cóc. Cỡ cá nuôi: 6 - 7 cm (4 - 5 gram/con) hoặc cá có kích cỡ lớn 100 gram/con trở lên. Mật độ nuôi ghép trong ao: 0,5 con/m2, trong bè: 1 - 2 con/m3. Thức ăn: tùy thuộc vào thức ăn của loài cá nuôi chính. Thời gian nuôi: theo thời gian nuôi các loài cá chính.
Cá nuôi ghép trong ao, đăng quầng và trong bè thu hoạch một lần cùng với cá chính. Nếu kích cỡ khi thả nuôi còn nhỏ (4 - 6 cm), khi thu hoạch các loài cá nuôi chính, có thể thu tỉa những cá cóc đạt quy cỡ thương phẩm (0,4 - 0,5 kg trở lên), số còn lại thả tiếp nuôi lưu cho vụ sau.
Theo Trung tâm quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam bộ - AG, 27/9/2006
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Việt Linh: Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, việc làm thủy sản, việc làm nông nghiệp, tuyển dụng, tìm việc, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.