Cá rô phi đã trở thành mặt hàng thuỷ sản chính với sản lượng hằng năm vào khoảng 1,5 triệu tấn trên toàn thế giới. Trong đó sản lượng cá rô phi của Trung Quốc và Ðông Nam á là lớn nhất. Ðặc biệt, ở Việt Nam, Malaixia và Nam á sản xuất đang được mở rộng. Ước tính đến cuối thập kỉ này, sản lượng cá rô phi của toàn cầu sẽ tăng gấp đôi. Trong khi thị trường nội địa ở những nước sản xuất loại cá này đã ổn định thì thị trường xuất khẩu vẫn còn khả năng phát triển. Tuy nhiên, khi ngành công nghiệp nuôi cá rô phi đã phát triển ở mức ổn định thì lợi nhuận sẽ giảm, và cơ hội thu lợi nhuận lớn từ nghề nuôi cá rô phi của những nước này cũng sẽ bị hạn chế.
Chắc chắn các nhà đầu tư ở thị trường nội địa sẽ chú trọng vào việc sản xuất giống, ương giống, bán giống và tìm kiếm thị trường cho những sản phẩm mới.
Hiện tại, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu chính. Sự cạnh tranh giữa những nhà sản xuất ở Châu á với những nhà sản xuất ở Trung Mỹ và Nam Mỹ ngày càng trở nên gay gắt. Trong khi thị trường Hoa Kỳ đang được mở rộng thì giá cả vẫn tương đối thấp và ổn định. Vì vậy sẽ rất khó cho những nhà sản xuất mới thâm nhập vào thị trường này nếu không có những ưu thế vượt trội.
Do đó, cơ hội đầu tư vào xuất khẩu các sản phẩm cá rô phi phụ thuộc vào sự phát triển của các thị trường mới và các sản phẩm mới bao gồm các sản phẩm giá trị gia tăng như cá rô phi chế biến sẵn. Và trong tương lai, cơ hội này còn phụ thuộc vào các sản phẩm cá rô phi sinh thái và cá rô phi sạch.
Sản lượng cá rô phi toàn cầu
Sản lượng cá rô phi của châu á chiếm một phần lớn trong tổng sản lượng của toàn cầu. Theo số liệu năm 2001 của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp quốc FAO thì trong số 1,5 triệu tấn sản lượng toàn cầu, sản lượng của châu á chiếm 80%, 20% còn lại là của châu Phi (chủ yếu là Ai Cập) và Trung-Nam Mỹ. Theo số liệu thống kê ở Trung Quốc cho thấy năm 2001, Trung Quốc có sản lượng cá rô phi là 670.000 tấn, tăng 6 lần so với sản lượng của thập kỷ trước đó. Một số nhà sản xuất lớn khác ở châu á là Thái Lan, Philippin và Inđônêxia. Một phần lớn sản lượng của châu á được tiêu thụ trong thị trường nội địa. Ngoài ra Trung Quốc, Ðài Loan và Inđônêxia cũng xuất khẩu một lượng đáng kể sang thị trường Hoa Kỳ trong năm 2002 (Trung Quốc 30%, Ðài Loan 25%, Inđônêxia 5%).
Mặc dù việc nuôi cá rô phi đã được ổn định ở những nước được coi là "có truyền thống" như Thái Lan, Philippin, nhưng người ta vẫn chưa thể khẳng định liệu có tiềm năng mở rộng sản xuất ở những nước này hay không. Thông thường, khi một ngành công nghiệp đã trưởng thành thì lợi nhuận thu được sẽ giảm xuống. Vì vậy cơ hội thu được lợi nhuận lớn từ cá rô phi ở những nước này có khả năng bị hạn chế.
Nhưng nghề nuôi cá rô phi vẫn được mở rộng ở Trung Quốc. Ðây dường như vẫn là một công việc mới mẻ đối với nhiều vùng ở Trung Quốc và vẫn đang được mở rộng ở nhiều nước như Việt Nam, Bănglađét, Xrilanca, Malaixia.
Ấn Ðộ một nước ngoại lệ vẫn chưa chấp nhận cá rô phi do còn những cản trở về luật pháp, họ chưa cho phép du nhập giống cá rô phi theo cách thông thường. Tuy nhiên, đã có những dấu hiệu về việc gỡ bỏ những rào cản này trong thời gian tới.
Một điểm đáng chú ý khác là việc nuôi cá rô phi ở châu á có vẻ ổn định hơn so với các loại hình nuôi trồng thuỷ sản khác. Tuy nhiên, có một số trường hợp ngoại lệ như mở rộng nuôi thâm canh cá rô phi trong lồng có thể không bền vững do chưa có quy định cụ thể đối với việc nuôi ở các vùng nước khác nhau. Ðiều này trái ngược với sự bùng nổ của việc nuôi một số loài khác như cá trê phi. Nghề nuôi cá rô phi đang rất cần được phát triển và ổn định trong một thời gian dài.
Vậy những cơ hội nằm ở đâu?
Như đã nói ở trên, không có nhiều cơ hội thực hiện những dự án kinh doanh về cá rô phi ở thị trường nội địa mang lại lợi nhuận lớn, đặc biệt là ở những vùng mà việc nuôi cá rô phi đã phát triển. Tuy nhiên ở một vài lĩnh vực vẫn luôn sẵn có nhiều cơ hội.
Sản xuất giống
Thông thường luôn có quan hệ chặt chẽ giữa sự phát triển của các hoạt động nuôi và các hoạt động sản xuất giống. Ví dụ như hiện nay, nhu cầu về cá rô phi giống ở Bănglađét, Việt Nam và Trung Quốc rất lớn đến nỗi nông dân và những người bán buôn phải nhập khẩu giống cá rô phi từ các nước khác như Thái Lan và Philippin. Nhu cầu này thường chỉ theo chu kỳ và tăng cao khi vào vụ nuôi. ở những vùng có mùa lạnh như ở miền Bắc Việt Nam hay một số miền của Trung Quốc thì không thể sản xuất cá giống trong nhiều tháng khi thời tiết lạnh. Nhu cầu về giống sẽ tăng lên khi nhiệt độ ấm lên ở vào khoảng 22 - 24oC. Bao giờ cũng có một khoảng thời gian khan hiếm cá giống chừng một, hai tháng trước khi các địa phương tự sản xuất được cá giống. Trong thời gian này cũng xuất hiện sự tăng về giá cá giống do phải lưu giữ cá bố mẹ qua đông hoặc phải nhập từ những vùng ấm hơn. Bất kỳ trại ương giống cá rô phi nào nhạy bén với nhu cầu này đều có thể thu được lợi nhuận đáng kể bằng cách tiến hành xuất khẩu hoặc phát triển một cách thích hợp phương pháp giữ giống trong mùa đông. Một cách khác để tăng lãi suất là tìm cách phát triển hoặc áp dụng nuôi cá rô phi có khả năng sinh sản tốt. Những tiến bộ trong kĩ thuật nuôi và sử dụng thức ăn công nghiệp cho cá rô phi đã cho năng suất cao hơn so với các hệ thống sản xuất khác. Ðiều này làm cho số lượng cá tăng do vậy sẽ không dễ đạt được lợi nhuận lớn trong thời gian tới. Vì vậy nhiều ngư dân, đặc biệt là những người nuôi cá rô phi thâm canh bắt đầu quan tâm đến chất lượng di truyền ở cá bố mẹ nhằm cải thiện di truyền cá để tăng lợi nhuận. Hiện nay có một số lượng dòng cá rô phi được cải thiện di truyền và đưa vào nuôi. Ðáng chú ý hơn cả là Chương trình Cải tiến Công nghệ Nuôi cá rô phi đơn tính đực YY. Ðây là chương trình kết hợp chuyển giới tính bằng hoóc môn và thử nghiệm theo thế hệ con để sản xuất đại trà cá rô phi siêu đực YY. Loại cá rô phi siêu đực YY này sẽ sản sinh ra thế hệ con toàn đực XY được gọi là Cá rô phi đực (GMT).
Nuôi loại cá đơn tính đực mới này là giải pháp tốt tránh được vấn đề sinh sản sớm hoặc sinh sản ngoài ý muốn của cá cái, làm cho sản lượng giảm sút. Loài cá này cho sản lượng cao, lợi nhuận đáng kể do có tỉ lệ tăng trưởng nhanh hơn so với các loài cá lưỡng tính. Kỹ thuật này không làm hại tới môi trường và là phương pháp có hiệu quả kinh tế hơn so với phương pháp chọn giống bằng cách chuyển giới tính bằng hoócmôn (nghĩa là cho cá ăn thêm hoócmôn ngoại sinh 17a methyl - testoteron (Xem thông tin chi tiết trên trang web www.fishgen.com)
Cũng có một số dòng cá lưỡng tính được chọn giống kỹ. Những trại giống có thể nhập cá bố mẹ cao cấp thông qua hợp tác với các viện nghiên cứu, hiệp hội hay công ty chuyên về lĩnh vực này.
Những sản phẩm giá trị gia tăng và thị trường xuất khẩu
ở nhiều nước sản xuất cá rô phi như Philippin nhưng lại không có ngành công nghiệp chế biến loại cá này. Cá rô phi được bán nguyên con, cắt khoanh, bán tươi hoặc ướp đá ở các chợ bán buôn và các chợ đầu mối cấp tỉnh. Hiện nay, ở Philippin, nhiều người bán lẻ với quy mô nhỏ bắt đầu bán cá tươi sống đựng trong bể ở các siêu thị, nhà hàng bắt đầu bán cá sống nhưng vẫn còn ít nhưng có vẻ cá rô phi đỏ (điêu hồng) được ưa chuộng hơn.
ở một số nước như Thái Lan, có rất ít nhà máy để sơ chế hay phi lê cá cho thị trường nội địa. Các nhà máy chế biến lớn thì chỉ chế biến cá phi lê để xuất khẩu. Các nhà xuất khẩu cá rô phi nhiều nhất châu á là Trung Quốc, Ðài Loan, Inđônêxia, tất cả đều hướng về mục tiêu thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ, nơi có sức tiêu thụ cá rô phi tươi sống năm 2002 chỉ vào khoảng 130.000 tấn với hy vọng thu được 200 triệu đôla Mỹ trong năm 2003. Những người tiêu thụ cá rô phi nhập khẩu chính ở Hoa Kỳ là cộng đồng người nhập cư và có thể khẳng định rằng vẫn có tiềm năng mở rộng thị trường ở Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, vẫn có rất ít thông tin về quy mô của các thị trường nhập khẩu. Châu Âu là một thị trường tiềm năng lớn nhưng cho đến nay còn có nhiều hạn chế so với thị trường Hoa Kỳ do quá quan tâm đến các vấn đề dư lượng kháng sinh trong sản phẩm và việc sản xuất sao cho không có ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Ví dụ như việc sản xuất và bán các loại hoócmôn cho cá rô phi đơn tính được Hoa Kỳ cho phép với một số giới hạn nhất định nhưng lại bị cấm ở một số nước châu Âu.
Việc xuất khẩu cá rô phi từ châu á tuy còn ít nhưng đã xuất hiện những tiềm năng đáng kể về các loại sản phẩm thích hợp. Những nhà sản xuất châu á sẽ có được chỗ đứng tốt trong thị trường châu Âu mặc dù phải cạnh tranh với các nhà sản xuất từ châu Phi. Cùng với sự chênh lệch giữa giá thành sản xuất với giá bán lẻ ở những nước châu á khác nhau nên vẫn có nhiều cơ hội buôn bán giữa các nước đó với nhau.
Với ưu thế của thị trường Hoa Kỳ , giá cả nhập khẩu cá rô phi cũng bị chi phối một cách gián tiếp bởi giá bán buôn ở Hoa Kỳ. Ðiều này đã trở thành hiển nhiên và không thay đổi trong nhiều năm gần đây, và có vẻ cũng không có sự thay đổi nào trong tương lai. Hơn nữa, giá cả đối với những nhà xuất khẩu, đặc biệt từ châu á có thể sẽ tiếp tục bị giảm sút.
Do lợi nhuận từ chế biến sản phẩm là chưa nhiều, nên cần phải có một hệ thống chế biến và sản xuất một cách hiệu quả hơn đối với cả những nhà sản xuất tư nhân hay những mạng lưới sản xuất lớn. Ðể chế biến ra những sản phẩm có giá cả hợp lý và thu lợi nhuận cao thì cần phải có một thị trường địa phương đáng tin cậy để tiêu thụ phụ phẩm từ chế biến như đầu, ruột và da cá v.v...
Ðã có môt số nỗ lực sản xuất hàng giá trị gia tăng từ cá rô phi bằng cách cho ra đời những sản phẩm mới. Ðài Loan đã sản xuất sashimi cá rô phi và một số sản phẩm khác như cá rô phi hun khói hoặc da cá rô phi sấy khô.
Bảng 1 - Giá một số sản phẩm từ cá rô phi tại thị trường Mỹ
Dạng sản phẩm |
Giá tại trại nuôi |
Giá bán buôn |
Giá bán lẻ |
Nguyên con |
|
|
|
- Ðông lạnh |
1,10 - 2,00 |
2,00 - 2,35 |
2,20 - 5,00 |
- Tươi |
2,30 - 3,00 |
3,00 - 4,00 |
4,00 - 9,00 |
- Sống |
2,20 - 6,60 |
2,80 - 7,50 |
4,00 - 10,00 |
Philê |
|
|
|
- Ðông lạnh |
4,80 - 6,75 |
5,50 - 7,80 |
7,00 - 11,50 |
- Tươi |
5,00 - 7,00 |
6,00 - 8,00 |
8,00 - 12,00 |
Cá rô phi sinh thái và cá rô phi sạch
Ðây là một thị trường có lẽ sẽ được mở rộng trong tương lai. Thời gian qua, nuôi trồng thuỷ sản sạch đã bị tụt hậu so với một số loại hình sản xuất sạch khác. Sản lượng nuôi trồng sạch của toàn thế giới chỉ ở mức 10.000 tấn, chiếm 0,02 % tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản. Châu Âu là thị trường tiêu thụ chính của sản phẩm cá sạch này.
Nguyên nhân chính dẫn tới việc các sản phấm sạch này thích ứng chậm với thị trường là do những tiêu chuẩn về nuôi trồng thuỷ sản sạch chưa được chấp nhận rộng rãi. Những tiêu chuẩn này luôn được bổ sung và phát triển ở các nước phương Tây nhưng lại chưa được áp dụng rộng rãi cho hệ thống nuôi trồng truyền thống ở châu á.
Cá rô phi là một động vật ăn tạp hoặc ăn cỏ, không phụ thuộc nhiều vào chế độ thức ăn, do đó là một loài cá thích hợp để nuôi sinh thái và nuôi sạch. Ðây có thể sẽ là một cơ hội mở các thị trường mới cho các sản phẩm sạch từ cá rô phi, đặc biệt là ở châu Âu.
Lời kết
Nghề nuôi cá rô phi ở châu á được mở rộng là kết quả của sự hợp tác ngày càng phát triển và của việc nâng cao chất lượng giống. Thị trường cũng sẽ được mở rộng nhờ những nỗ lực của việc marketing và sự đa dạng hoá của các loại hình sản phẩm. Luôn sẵn có những cơ hội kinh doanh lớn nhưng các nhà đầu tư cũng cần phải chú ý đến xu hướng công nghiệp hoá nghề nuôi cá rô phi trong nước cũng như trên thế giới. Và quan trọng nhất là cần phải đảm bảo có một thị trường tiêu thụ thích hợp cho những sản phẩm mà họ làm ra.
Nguồn: Asian Aquaculture Magazine T.11-12/2003, TTKHTS số 1/2004
Nhấn vào đây để xem tất cả các thông tin kỹ thuật nuôi cá rô phi
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Việt Linh: Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, việc làm thủy sản, việc làm nông nghiệp, tuyển dụng, tìm việc, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.