• TIN TỨC
  • KỸ THUẬT
  • SẢN PHẨM
  • DOANH NGHIỆP
  • VIỆC LÀM
  • CNN
  • SVC
  • THỰC PHẨM
  • KHÁM PHÁ
  • ENGLISH
  • 中文
  • English Tiếng Việt

Trồng rong nho biển (Caulerpa lentillifera) - Sea Grape

Rong nho biển đang là một loại sản phẩm mới ở Việt Nam nói chung và Khánh Hòa nói riêng. Tại Khánh Hòa, ngoài Viện hải dương học Nha Trang, Công ty TNHH Trí Tín cũng đã trồng thử nghiệm 200 g giống được mang đến từ Okinawa (Nhật Bản) từ tháng 10/2005. Đồng thời với quá trình nhân giống, Công ty TNHH Trí Tín đã tiến hành trồng thử nghiệm theo nhiều phương pháp khác nhau, trong đó có sáng kiến trồng rong nho theo phương pháp trồng kê sàn có lưới che. Từ tháng 10/2006 đến nay, công ty đã nhân rộng thành công phương pháp trồng này tại vùng biển Hòn Khói (Ninh Hải, Ninh Hòa).

Phương pháp này đã tận dụng được nguồn nguyên liệu rẻ tiền (tre, gỗ tạp, lồ ô…) và nguồn năng lượng sẵn có ở địa phương (nước biển và năng lượng mặt trời). Chi phí thấp, cách trồng đơn giản, hiệu quả rất cao: rong sau khi trồng từ 15 - 20 ngày là thu hoạch được với chất lượng sản phẩm cao hơn nhiều so với trồng tại Nhật Bản. Trồng tại Nha Trang, chùm quả to và dài từ 10 - 20 cm), tại Nhật chùm quả từ 3 - 5 cm. Năng suất đạt 30 tấn/ha/năm (gấp 2 lần so với Nhật Bản và Philippines).

Phương pháp trồng kê sàn có lưới che gồm có 8 công đoạn:

Công đoạn 1:

- Chọn địa điểm nuôi ở vùng biển sạch, nguồn nước không bị nhiễm bẩn.

- Làm vệ sinh đìa (ao) nuôi cho sạch.

- Đóng các sàn bằng gỗ tạp (tre, lồ ô...) hoặc kê bằng gạch, đá cách đáy khoảng 0,5 m.

Công đoạn 2:

- Lấy nước biển vào đìa (ao) nuôi qua cống có lọc bằng lưới để ngăn các tạp chất hữu cơ.

- Nước lấy vào đìa (ao) nuôi có độ sâu từ 1 - 1,2 m.

Công đoạn 3:

- Nạp chất dinh dưỡng (đất bùn đáy biển) vào các khay nhựa có kích thước khoảng 30 x 50 x 5 cm.

- Cấy giống rong trồng vào các khay nhựa và giữ chặt để rong không bị tróc và trôi khi đưa xuống nước.

Công đoạn 4:

- Đặt các khay nhựa (đã được cấy giống) lên trên bề mặt các sàn bằng gỗ hoặc kê bằng gạch, đá trong long đìa (ao) nuôi.

Công đoạn 5:

- Bên trên mặt nước (nơi trồng rong) che bằng lưới để chủ động điều tiết lượng ánh sáng và nhiệt độ của nước trong đìa nuôi cho phù hợp với yêu cầu sống và phát triển của rong.

- Chú ý cách che sao cho thuận tiện: cần che khi trời quá nắng và cần dỡ khi trời tối.

Công đoạn 6:

Dùng guồng đập để tạo cho nước trong đìa (ao) di chuyển nhẹ (không bị tù đọng). Đồng thời, cung cấp thêm oxy cho nước để rong phát triển tốt.

Công đoạn 7:

Sau 15 - 20 ngày trồng thì tiến hành thu hoạch. Bê từng khay lên bơ,â thu hoạch xong thì đặt trả lại vị trí cũ, để rong tiếp tục phát triển.

Công đoạn 8:

Sản phẩm thu hoạch (chùm trái) được đưa vào công đoạn xử lý và chế biến thành sản phẩm hoàn chỉnh.

Chất lượng sản phẩm rong nho của Công ty TNHH Trí Tín trồng theo phương pháp này đã được đối tác Nhật Bản thừa nhận. Từ đó, bên đối tác đã hỗ trợ cho công ty áp dụng thành công cả công đoạn chế biến thành sản phẩm hoàn chỉnh. Các sản phẩm rong nho tươi (dùng ngay, thời gian bảo quản 3 - 5 ngày), rong nho muối nước (thời gian bảo quản 2 - 3 tháng) và rong nho muối khô (bảo quản 2 - 3 tháng) rất được thị trường Nhật Bản ưa chuộng.

KHPT, 26/10/2007. THANH HƯƠNG (Sở khoa học và công nghệ Khánh Hòa)

 

Trồng rong nho xuất khẩu

Rong nho biển có nguồn gốc từ Philippines, sau đó du nhập vào Nhật Bản và được người Nhật trồng, chế biến thức ăn như một loại rau xanh từ năm 1986. Tuy nhiên tại xứ sở mặt trời mọc, rong nho phát triển không thuận lợi. 

Năm 2004, loài rong này được một kỹ sư địa chất Việt Nam mang về nghiên cứu, cải tiến phương pháp trồng và nhân giống thành công, cho ra đời một sản phẩm rong nho có chất lượng cao hơn. Người kỹ sư ấy là ông Lê Bền - Hội viên Hội Khoa học - Kỹ thuật (KH-KT) Khánh Hòa, Phó Giám đốc Công ty TNHH Trí Tín (Nha Trang). Sáng tạo trên đã giúp ông đạt giải khuyến khích trong Hội thi Sáng tạo KH-KT toàn quốc lần thứ 9 (2006 - 2007), đồng thời mở ra triển vọng mới cho nghề trồng rong nho ở Việt Nam.

Sau một đoạn đường dài, ngoằn ngoèo men theo các ao đìa nuôi tôm của người dân xã Ninh Hải (Ninh Hòa), chúng tôi đến thôn Đông Hà - nơi trồng rong nho của ông Lê Bền. Tại đây, chúng tôi tận mắt chứng kiến sự phát triển tươi tốt của loài rong nho được mang về từ Nhật Bản, vốn rất hiếm thấy ở vùng biển Việt Nam. 

Vừa kiểm tra lại chất lượng rong nho mới thu hoạch, ông Bền vừa kể cho chúng tôi nghe chuyện mình đã bén duyên với nghề trồng rong nho như thế nào. Năm 2004, khi ấy ông Bền còn làm nghề kinh doanh đá granit, trong một bữa cơm thân mật, các đối tác người Nhật Bản tình cờ nhắc đến món rong nho tươi bổ dưỡng, rất được thực khách Nhật ưa chuộng mà họ không tìm thấy trong thực đơn tại các nhà hàng ở Việt Nam. Nghĩ đến những khu đìa bỏ hoang do trước đây nuôi tôm hùm thất bại, ông Bền đã nảy ra ý tưởng mang rong nho Nhật Bản về trồng. Thế là, từ 200 gram rong nho giống mà ông Bền nhờ các đối tác mang từ Nhật Bản sang, ông đã  nhân giống trong các bể gương theo tài liệu hướng dẫn. 

Đến khi có nguồn giống cần thiết, ông bắt đầu mang giống trồng tại các đìa nuôi tôm bỏ hoang. Tuy nhiên, bước đầu do chưa có kinh nghiệm nên công việc không thuận lợi, nhiều lúc khiến ông cảm thấy nản lòng. Chỉ vài ngày sau khi được thả xuống đìa, những cây rong nho giống ít ỏi cứ “không cánh mà bay”, hao hụt gần hết. Sau nhiều đêm soi đèn tìm hiểu, ông tìm ra nguyên nhân: các cây giống đã bị cá và một số loài động vật biển ăn hết. Lúc này, ý tưởng phát triển giống rong nho của ông gần như bị phá sản.

° Tìm ra phương pháp trồng mới

Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng ông Bền vẫn không nản chí. Để tránh sự “tấn công” của các loài động vật biển, ông đã nghĩ ra phương pháp trồng cách ly trong các lồng làm bằng lưới. Phương pháp này tuy hạn chế tối đa sự hao hụt, nhưng chi phí cao nên nếu tiếp tục duy trì phương pháp trồng cách ly thì việc kinh doanh sẽ không hiệu quả. Chính vì thế, ông Bền luôn nung nấu ý định phải tìm ra phương pháp trồng rong nho mới. 

Ở Nhật Bản, rong nho được trồng theo 2 phương pháp cơ bản: Trồng tiếp đáy (rong được trồng trực tiếp xuống đáy biển hoặc đáy ao hồ) và trồng treo (rong được bỏ trong các túi lưới, treo lơ lửng trong nước biển). Ngoài ra, ở một số nơi còn trồng rong trong các bể, hồ làm bằng vật liệu xi măng (rong được thả vào bể có chứa nước biển). Nhưng tất cả các phương pháp trên đều có hạn chế. Nếu trồng tiếp đáy, rong dễ bị bẩn do bị giẫm đạp trong khi thu hoạch. Trồng treo, rong không trực tiếp lấy dưỡng chất từ đáy biển nên phát triển chậm. Nếu trồng trong bể thì chi phí lại quá cao. 

Rút kinh nghiệm từ các phương pháp trồng rong nho ở nước ngoài, dựa vào điều kiện khí hậu Việt Nam, ông Bền đã tìm ra phương pháp trồng rong nho mới. Đó là phương pháp trồng kê sàn có lưới che. Theo phương pháp này, rong được trồng trong những khay nhựa, lót ni lông có chứa mùn cát dinh dưỡng. Sau đó, các khay giống được kê trên kệ, sạp đóng bằng tre, gỗ, hoặc xếp bằng gạch, đá nằm chìm dưới đáy đìa; dùng lưới che hoa lan tạo mái che di động để chủ động điều tiết ánh sáng, nhiệt độ của nước biển; kết hợp với guồng đập tạo dòng chảy, tăng lượng oxy. Nhờ thế, rong có điều kiện hấp thu chất dinh dưỡng trong khay, mà không lẫn với tạp chất từ đáy ao hồ, đồng thời lưới che di động có tác dụng khắc phục được khí hậu nắng nóng ở Việt Nam. Mặt khác, với cách làm này, việc thu hoạch rong thuận tiện hơn, chi phí đầu tư thấp nên sản phẩm có tính cạnh tranh cao.

Rong nho có tên khoa học là Caulerpa lentillifera. Do có hình dạng rất giống quả nho nên chúng còn có tên gọi là nho biển hay trứng cá hồi xanh. Rong nho có đặc điểm mềm, giòn, ngon và rất bổ dưỡng do có chứa nhiều vitamin A, C và các khoáng chất vi lượng cần thiết. Trong tự nhiên, rong nho phân bố ở các vùng biển ấm Thái Bình Dương như: Philippines, Micronesia, Java, Bikini, Nhật Bản, những vùng vịnh kín sóng, nước biển trong và có độ mặn cao…

Ở Việt Nam, năm 2006, các nhà khoa học Viện Hải dương học Nha Trang đã tìm thấy rong nho tại đảo Phú Quý (Phan Thiết). Tuy nhiên kích thước của nó lại rất nhỏ, bằng 1/3 - 1/4 so với loài rong có nguồn gốc ở Nhật Bản. 
Đặc biệt, sau khi xét nghiệm mẫu rong theo phương pháp trồng mới, các cơ quan chức năng kết luận, rong nho trồng ở Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm và rất giàu chất dinh dưỡng. Từø những kết quả thu được, đề tài nghiên cứu khoa học “Cải tiến phương pháp trồng rong nho cho năng suất cao và chất lượng tốt” của ông Bền đã đạt giải khuyến khích tại Hội thi Sáng tạo KH-KT toàn quốc lần thứ 9 (2006 - 2007). 

Tuy nhiên, ông Bền cho biết, người Nhật vốn khắt khe trong tiêu chuẩn hàng hóa, đặc biệt là các loại thực phẩm, nên những cơ sở trên vẫn không đủ thuyết phục các đối tác Nhật Bản khi ông chào bán sản phẩm. Vì thế, để kiểm chứng, các đối tác trực tiếp mang sản phẩm về Nhật, test lại. Tuy vậy, với mẫu mang sang cùng với kết quả xét nghiệm, người Nhật vẫn không tin rong nho trồng ở Việt Nam có thể tốt hơn nhiều lần so với rong nho được trồng ở Nhật Bản. Các đối tác người Nhật còn cử chuyên gia sang tận nơi trực tiếp giám sát toàn bộ quy trình nuôi trồng cũng như sơ chế. Lúc đó, kết quả mới được thừa nhận. “Theo tôi, ở Việt Nam đã có một phương pháp trồng rong nho rất tốt. Sau khi trồng 20 ngày, rong nho đạt chiều dài khoảng từ 10 đến hơn 20cm; còn ở Okinawa (Nhật Bản), chiều dài của rong chỉ đạt khoảng 6 - 7cm. 

Hơn nữa, chi phí đầu tư ở Việt Nam thấp nhưng năng suất sản phẩm lại cao; còn ở Nhật thì ngược lại. Tuy chất lượng sản phẩm rong ở Nhật sạch nhưng chiều dài cọng rong ngắn, trái rong nhỏ, màu sắc nhạt và mùi vị ít ngon; còn rong ở Việt Nam cọng dài trái to, màu sắc đẹp hơn và mùi vị cũng ngon hơn” - anh Yamacuchi, kỹ sư Nhật Bản giám sát quy trình nuôi trồng và sơ chế rong nho tại cơ sở trồng rong nho của ông Bền, nhận xét. Từ kết quả này, con đường xuất khẩu rong nho sang thị trường Nhật bắt đầu được mở rộng. 

Tuy nhiên, trước khi xuất sang thị trường khó tính này, rong nho phải được sơ chế rất cẩn thận và công phu. Sau khi thu hoạch, rong nho được nhặt thành từng đoạn nhỏ khoảng 6 - 7cm, cho vào bể nước lọc sạch chất bẩn. Sau đó, cho vào máy quay ly tâm làm ráo nước và chọn những cọng đạt chất lượng để đóng gói. Rong nho thành phẩm có 2 loại: rong tươi (thời gian sử dụng từ 5 - 6 ngày) và rong muối (thời gian sử dụng từ 2 - 3 tháng). Ngoài chức năng làm thực phẩm, rong nho còn làm mặt nạ chăm sóc da. Sản phẩm này hiện có bán tại Công ty TNHH Trí Tín (35 Võ Trứ, Nha Trang).

Theo kỹ sư Lê Bền, rong nho trồng ở Việt Nam năng suất bình quân 30 tấn/ha/năm, gấp 2 lần so với rong nho trồng ở Nhật Bản, nhưng chi phí lại thấp hơn 10 lần, giá bán sản phẩm cao (từ 8 - 10 USD/kg rong tươi). Rong nho cũng rất dễ trồng, từ khi trồng đến khi thu hoạch chỉ 15 - 20 ngày. Nông dân chỉ cần học qua các kiến thức cơ bản là có thể trồng được. Mặt khác, rong nho cũng rất thích hợp với điều kiện tự nhiên ở các vùng biển Việt Nam. Vì vậy, phát triển mô hình trồng rong nho ở những vùng đảo thiếu nước ngọt, thiếu rau xanh như Hoàng Sa, Trường Sa là việc làm cần thiết. 

Hy vọng, những thành quả bước đầu trong việc nghiên cứu và nuôi trồng rong nho của kỹ sư Bền sẽ là tiền đề phát triển nghề trồng rong nho ở Việt Nam sau này. Và từ đây, thực đơn của người Việt sẽ có thêm nhiều món ngon, bổ dưỡng được chế biến từ rong nho “made in Viet Nam”.

M.T - T.A (Nguồn: Cty Trí Tín)

 

Các tên gọi khác của rongnho : Umibudou (Nhật), Green Caviar (The Philippines).

* Đặc điểm:

• Trong tự nhiên, rong nho phân bố ở các vùng biển ấm Thái Bình Dương như: Philippines, Micronesia, Java, Bikini, Nhật Bản, những vùng vịnh kín sóng, nước biển trong và có độ mặn cao…

• Rong nho biển phát triển mạnh tại Philippines, sau đó du nhập vào Nhật Bản và được người Nhật trồng, chế biến thức ăn như một loại rau xanh từ năm 1986.

• Và từ lâu rong nho đã được sử dụng phổ biến như một loại rau ăn ở các nước, đặc biệt là ở Philippines, Nhật Bản.

• Năm 2004, loài rong này được du nhập và nuôi trồng thử nghiệm tại Việt Nam. Đến năm 2007 thì nuôi trồng loại rong này thành công trong điều kiện của Việt Nam.

• Ở Việt Nam, năm 2006, các nhà khoa học Viện Hải dương học Nha Trang cũng đã tìm thấy rong nho tại đảo Phú Quý (Phan Thiết). Tuy nhiên kích thước của nó lại rất nhỏ, bằng 1/3 - 1/4 so với loài rong có nguồn gốc ở Nhật Bản.

• Rong nho có đặc điểm mềm, giòn, ngon

• Rất bổ dưỡng do có chứa nhiều vitamin A, C

• Và chứa nhiều khoáng chất vi lượng cần thiết.

Thành phần: (Theo kết quả phân tích của phòng Hóa phân tích, phân viện khoa học vật liệu Nha Trang)

Rong nho có hàm lượng cao các khoáng đa lượng Ca, Mg, K, Na, P đặc biệt các khoáng đa lượng cần thiết cho người là Canxi (chiếm 2,1%) và Magiê (chiếm 1,2 %)

• Trong rong nho chứa nhiều khoáng vi lượng, trong đó có đầy đủ các khoáng vi lượng cần thiết cho cơ thể con người, đặc biệt là Iod, Sắt, Kẽm, Đồng, Mangan, Coban,...

• Fe và I đang được xem là 2 vi chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể con người, phòng chống các rối loạn do thiếu 2 vi chất này (thiếu máu, bướu cổ, đần độn…)

• Hàm lượng Iod trong rong nho (470µg.g-1) là rất cao (tương đương với hàm lượng Iod trong các loại rong mơ – Sargassum và cao hơn nhiều lần so với hàm lượng Iod trong các loại thực phẩm khác, kể cả trong thực phẩm có nguồn gốc từ biển như cá tươi : 2.4 µg.g-1 , cá khô 13.6 µg.g-1, nước mắm : 9.5 µg.g-1 , mắm ruốc 3-15 µg.g-1 , muối hạt : 5.5 µg.g-1 , rau cải xoong : 0.45 µg.g-1)

• Cùng với các khoáng đa và vi lượng khác, đặc biệt là Ca, P, Mn, Cu, Co, Zn, … sẽ có tác dụng phòng và chống bệnh bướu cổ ở địa phương. Vì bệnh bướu cổ xuất hiện không chỉ do thiếu lượng Iod cần thiết và còn do thiếu khác khóang đa và vi lượng khác, đặc biệt là Ca, P, Mn, Cu, Co, Zn, … trong môi trường sống và thực phẩm.

• Nhu cầu Iod cần thiết cho cơ thể con người được qui định tối thiểu là 150 µg.g / 1 ngày ( Theo US food anfd nutrition board , 1980 : Cơ quan dinh dưỡng thực phẩm Mỹ năm 1980), Việt Nam đưa ra tiêu chuẩn là 300 µg.g / ngày .

• Hydrat Carbon trong rong nho chủ yếu là đường Rammonse có tác dụng như Sulfat polysacharid nên giúp việc nhuận trường cũng như kháng khuẩn đường ruột, hấp thu các kim lọai độc hại trong cơ thể người và thải ra ngòai theo đường bài tiết.

• Ngoài ra trong rong nho có chứa Protein ( Chiếm 7,4%), Lipid (1,2%),

• Mặc dù có hàm lượng Protein không vượt trội, song trong rong nho, cũng như các loại rong biển khác, có chứa khoảng 20 axit amin, trong đó có 10 loại axit amin cần thiết cho con người như Histidine, Isoleusine, Leusine, Lysine, Methionine, Phenylalannne, Threonine, Trypthophan, Valine, và Glutamic acid, Aspartic acid…

• Hội đồng Philippin về nghiên cứu và phát triển nuôi trồng thủy sản và biển (PCAMRD), nước có lịch sử nuôi trồng và sử dụng rong nho cho thực phẩm lâu đời nhất (trên 40 năm), đang định hướng nuôi trồng rong nho xuất khẩu đã xác định rong nho là nguồn cung cấp Iod, Ca, Fe và Vitamin A,C cho cơ thể con người.

• Tóm lại rong nho là nguồn cung cấp Iod, Canxi, Sắt và Vitamin A, C cho cơ thể người. Trong đó sắt, Iod , Vitamine A là các vi chất này như: suy dinh dưỡng cần thiết cho mọi lứa tuổi, phòng chống các rối loạn do thiếu các vi chất này như: suy dinh dưỡng, thiếu máu, bướu cổ, đần độn…

• Căn cứ vào hàm lượng các khoáng chất trong rong nho và nhu cầu tối thiểu của cơ thể người thì mỗi ngày 1 người chỉ cần ăn khỏang 10-15g rong nho tươi là có đủ lượng Iod cũng như các vi chất dinh dưỡng cần thiết.

* Công dụng cơ bản của rong nho biển:

• Phòng bệnh :

–Giúp phòng chống 1 số bệnh như Thấp khớp và Cao huyết áp, Bệnh đường ruột, Tiểu đường, Huyết áp, Bướu cổ, Thiếu máu, Suy dinh dưỡng,…

•Nhuận trường kháng khuẩn :

– Giúp nhuận trường, kháng khuẩn đường ruột, hấp thụ kim loại độc hại trong cơ thể và thải ra ngoài qua đường bài tiết.

– Chất Caulerparine trong rong nho kích thích ăn ngon miệng, có tác dụng diệt khuẩn và gây tê nhẹ.

• Làm đẹp :

– Chất Caulerparine giúp bảo vệ đường tiêu hóa, làm sạch các lỗ chân lông và bề mặt da, chống lão hóa và chống béo phì…

– Đặt biệt rong nho được dùng như một loại mỹ phẩm tự nhiên, làm đẹp da, và dùng làm nguyên liệu để massage toàn thân rất hiệu quả.

Nguồn: Cty Unisea

 

Trồng rong nho Nhật xuất sang… Nhật

Một nhóm chuyên gia người Nhật đã bay sang Việt Nam, trực tiếp đến tận cơ sở nuôi trồng của kỹ sư địa chất Lê Bền để tìm hiểu thực tế toàn bộ quy trình nuôi trồng, sơ chế cây rong nho. Đến lúc đó họ mới chấp nhận đặt hàng.

Tình cờ trong bữa cơm với một đối tác đến từ xứ sở mặt trời mọc, một kỹ sư địa chất nghĩ đến việc chuyển nghề trồng rong nho khi người khách luôn miệng nhắc đến loại thực phẩm tươi ngon bổ dưỡng này. Và từ ý tưởng đó cộng với kiến thức học hỏi qua tài liệu khoa học và sự kiên nhẫn của một con người có chút trải nghiệm trong cuộc sống đã giúp cho anh Lê Bền, hội viên Hội Khoa học - Kỹ thuật Khánh Hòa nghiên cứu, cải tiến phương pháp trồng và nhân giống thành công cây rong nho có chất lượng cao.

Kết quả sáng tạo đó không chỉ giúp cho anh đoạt giải khuyến khích tại Hội thi sáng tạo khoa học - kỹ thuật toàn quốc lần thứ 9 (2006-2007), mà còn mở ra một triển vọng mới cho hoạt động nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam.

Cải tiến phương pháp trồng rong nho biển

Tôi tìm đến cơ sở trồng và chế biến rong nho do kỹ sư Lê Bền đảm trách ở thôn Đông Hà, xã Ninh Hải, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa trong buổi sáng tinh mơ. Ở đó, lần đầu tiên tôi được nhìn thấy loại rong nho du nhập từ Nhật Bản với những chùm quả mẩy tròn, xanh mướt bám vào nhau thành một chuỗi hạt dài gần 20cm.

Rong nho tươi mới thu hoạch.

Cầm những cây rong nho vừa thu hái, anh Lê Bền tâm sự: "Tôi vốn là kỹ sư địa chất, nên chuyện trồng rong nho là mối duyên rất tình cờ. Cách đây hơn bốn năm, khi tôi còn đang kinh doanh đá granit, trong bữa cơm xã giao với một người khách Nhật Bản, tôi thấy vị khách hàng của mình tỏ ra chẳng ngon miệng khi không tìm thấy rong nho biển trong thực đơn. Hỏi ra mới biết loại rong này có nguồn gốc từ Philippines, sau đó được người Nhật đưa về trồng từ năm 1986 để làm thức ăn thường trực như món rau xanh ở ta vậy. Lúc đó, tôi chợt nhớ đến những khu ao đìa ven biển miền Trung đang bị bỏ hoang do nuôi tôm sú thất bại, nên mới nghĩ đến chuyện trồng thử nghiệm".

Phải mất khá nhiều lần thuyết phục, đến cuối năm 2004, vị khách hàng mua bán đá granit mới mang sang cho kỹ sư Lê Bền 200 gram rong nho giống và một số tài liệu hướng dẫn cách trồng. Anh Bền cùng người cháu là Đặng Ngọc Cảnh tiến hành nhân giống trong những bể kiếng theo các tài liệu hướng dẫn.

Hơn một tháng sau, anh Bền mang toàn bộ rong nho thu được từ bể kiếng đưa xuống trồng thử nghiệm ở một số ao đìa tôm sú đang thời gian bỏ hoang. Kinh nghiệm không có, môi trường nước không được kiểm định đánh giá bằng những chỉ số khoa học cụ thể, nên gần một tuần sau khi thử nghiệm, không ít cây rong nho… biến mất.

Nhiều đêm thức trắng bên ao đìa dùng đèn để soi, anh Bền mới phát hiện ra nguyên nhân hao hụt cây giống là do cá tạp và một số sinh vật biển "dọn" dần. Cú vấp đầu tiên không làm Bền nản lòng, vì anh đã nghĩ ra cách ngăn chặn các loài sinh vật biển bằng phương pháp trồng trong các nhà lồng được thiết kế bằng lưới. Mặc dù đã có giải pháp khống chế các loài sinh vật biển tấn công rong nho, nhưng nguồn vốn đầu tư cho nhà lồng không phải là ít, nếu trồng theo phương pháp này e rằng hiệu quả kinh tế thấp kém, thậm chí có thể… phá sản. Kỹ sư Lê Bền tiếp tục dành thời gian nghiên cứu, tính toán để tìm ra một phương pháp khác.

Anh Bền kể: "Bên Nhật người ta trồng rong nho theo hai phương pháp cơ bản, đó là trồng trực tiếp xuống đáy biển hoặc ao đìa và trồng treo trong các túi lưới, thả lơ lửng trong nước. Ngoài hai phương pháp cơ bản này, một số vùng còn trồng rong nho trong các bể bê tông chứa nước biển. Ngẫm nghĩ mãi, tôi thấy nếu áp dụng theo các phương pháp trên vẫn chưa ổn, vì trồng tiếp đáy thì rong nho dễ bị bẩn và hư hỏng khi thu hoạch; còn trồng treo thì cây rong không hút được dưỡng chất từ đáy biển nên sinh trưởng chậm, đưa vào bể bê tông thì chi phí cũng không ít".

Sau khi tìm hiểu và so sánh, kỹ sư Lê Bền đã tìm ra một phương pháp trồng rong nho hoàn toàn mới, gọi nôm na là phương pháp kê sàn có lưới che. Theo đó, rong nho được trồng trong các khay nhựa đã lót nilon có chứa mùn cát dinh dưỡng. Những chiếc khay rong được sắp đặt trên các kệ sạp đóng bằng vật liệu tre, gỗ, hoặc đá đặt chìm dưới nước. Bên trên được che chắn bằng loại lưới che hoa lan có thể di động để điều tiết ánh sáng, nhiệt độ của nước khi cần thiết. Bên ngoài là một guồng máy đập trong nước để tạo dòng chảy, tăng cường oxy.

Với phương pháp này, rong nho có đủ điều kiện hấp thụ chất dinh dưỡng trong những chiếc khay, mà không chịu sự ảnh hưởng của các loại tạp chất dưới đáy ao đìa, còn lưới che di động có thể điều chỉnh, khắc phục được thời tiết khí hậu nắng nóng. Thêm một ưu điểm nữa là phương pháp kê sàn giúp cho việc thu hoạch sản phẩm nhanh gọn, chi phí đầu tư thấp, hiệu quả kinh tế nâng cao. Nét nổi bật nhất là những mẫu rong nho trồng theo phương pháp kê sàn đã được các cơ quan chức năng kiểm nghiệm, kết luận có đủ các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm và giàu chất dinh dưỡng.

Loại rau cao cấp hứa hẹn nhiều triển vọng

Kỹ sư Lê Bền tâm sự: "Từ kết quả thành công bước đầu, tôi xây dựng đề tài nghiên cứu khoa học "Cải tiến phương pháp trồng rong nho cho năng suất cao, chất lượng tốt". Mặc dù đề tài này đã đoạt giải khuyến khích tại Hội thi sáng tạo khoa học - kỹ thuật toàn quốc lần thứ 9, nhưng không dễ thuyết phục được người Nhật một cách dễ dàng".

Thật vậy, người Nhật vốn rất khắt khe về tiêu chuẩn hàng hóa, nhất là những loại thực phẩm tác động trực tiếp đến sức khoẻ con người. Vì thế khi anh Bền giới thiệu, chào bán sản phẩm rong nho "Made in Việt Nam", một vài đối tác đã mang sản phẩm về tận bên Nhật để kiểm nghiệm lại. Kết quả được đánh giá bằng những chỉ số khoa học hẳn hoi, nhưng đối tác vẫn chưa tin rằng rong nho trồng ở Việt Nam lại có chất lượng tốt hơn ở xứ sở của họ. Chính vì vậy, một nhóm chuyên gia người Nhật đã bay sang Việt Nam, trực tiếp đến tận cơ sở nuôi trồng của anh Bền để tìm hiểu thực tế toàn bộ quy trình nuôi trồng, sơ chế cây rong nho.

Đến lúc đó họ mới chấp nhận đặt hàng của Công ty TNHH Trí Tín, TP Nha Trang do kỹ sư Lê Bền đảm nhiệm vai trò Phó giám đốc. Đến nay, cơ sở nuôi trồng và chế biến rong nho tươi của doanh nghiệp Trí Tín đã được nâng cấp, mở rộng với công suất mỗi năm 30-40 tấn.

Kỹ sư Lê Bền tại cơ sở trồng và chế biến rong nho ở xã Ninh Hải, huyện Ninh Hòa.

Tiếp xúc với phóng viên Báo CAND, ông Yamacuchi - kỹ sư thủy sản người Nhật đang được đặc trách giám sát kỹ thuật tại cơ sở nuôi trồng rong nho của anh Bền, nhận xét: "Đây là một phương pháp hữu hiệu, chi phí đầu tư thấp. Với thời gian trồng 20 ngày, cây rong nho đã đạt độ dài từ 10 đến 20cm, trong khi đó ở Okinawa - Nhật Bản là nơi có điều kiện môi trường tốt nhất, cây rong nho cũng chỉ đạt khoảng 6 đến 7cm. Đành rằng sản phẩm rong nho ở Okinawa sạch, nhưng cây rong trồng ở đây dài, quả lớn, màu sắc đẹp, mùi vị và chất lượng thơm ngon hơn".

Với phương pháp trồng nêu trên, thời gian sinh trưởng của rong nho từ khi trồng đến khi thu hoạch từ 15 đến 20 ngày, mỗi hécta có thể cho năng suất 30 tấn/năm, cao gấp đôi so với kết quả trồng ở Nhật Bản, trong khi đó chi phí đầu tư thấp hơn khoảng 10 lần, nhưng giá thành sản phẩm mỗi kilôgam rong nho tươi vẫn thu được từ 10 đến 15 USD.

Để có được sản phẩm rong nho đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường Nhật, sau khi thu hoạch từ cơ sở nuôi trồng, khâu sơ chế đã được thực hiện theo một quy trình kỹ thuật hết sức cẩn trọng và nghiêm ngặt. Cây rong được cắt thành đoạn ngắn từ 5 đến 7cm trước khi đưa vào bể tẩy lọc chất bẩn, rồi chuyển vào máy ly tâm làm khô nước. Tiếp đó là lựa chọn những cây rong khoẻ, đạt chất lượng để đóng gói. Sản phẩm rong nho trên thị trường hiện có hai loại rong tươi có thời gian sử dụng từ 5 đến 6 ngày, rong muối từ 2 đến 3 tháng. Rong nho không chỉ là thực phẩm bổ dưỡng, mà còn được chế biến sản phẩm mặt nạ chăm sóc da.

Với những kết quả bước đầu về nghiên cứu, cải tiến phương pháp trồng và nhân giống rong nho có chất lượng cao, tin rằng việc chuyển giao kỹ thuật trồng rong nho sẽ được nhân rộng và phát triển trong cộng đồng, đặc biệt là những vùng đảo thiếu rau xanh và nước ngọt. Sản phẩm cây rong nho nuôi trồng ở cơ sở của anh Lê Bền đã chứng minh loài cây này có khả thích hợp với điều kiện tự nhiên và thời tiết, khí hậu nhiều vùng biển ở Việt Nam. Bây giờ, loài rau xanh cao cấp này cũng đã có mặt trong thực đơn ở một số nhà hàng Hoa Ý, Cây Sáo, Thiên Quế… TP Hồ Chí Minh và trong nay mai sẽ trở thành loại thực phẩm phố biển trong các bữa ăn của người Việt. n

Theo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Đại, Trưởng phòng Thực vật biển - Viện Hải dương học Nha Trang: Rong nho biển có tên khoa học Caulerpa lentilifera thuộc bộ rong cầu lục Caulerpales, ngành rong lục Chlorophyta. Do hình dạng và giá trị dinh dưỡng cao, nên rong nho còn được ví như trứng cá Hồi xanh (Green Caviar) hoặc Nho biển (Sea grapes). Đây là loài rong lục phân bố ở vùng biển ấm Thái Bình Dương như Philippines, Java, Micronesia, Bikini… ở những vũng, vịnh kín sóng, nước trong. Rong nho biển có đặc điểm mềm, giòn và ngon nên được ưa chuộng như một loại rau xanh cao cấp.

Tại Việt Nam vào năm 2006, các nhà khoa học ở Viện Hải dương học Nha Trang đã tìm thấy rong nho ở đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận, nhưng kích thước chỉ bằng 1/3 hay 1/4 rong nho biển có nguồn gốc Nhật Bản. Tháng 9-2006, những mẫu rong nho tươi đã được gửi đến một Trung tâm Dịch vụ phân tích thí nghiệm ở TP Hồ Chí Minh kiểm định thành phần hóa học. Kết quả cho thấy rong nho biển không chứa nhiều đường, đạm, nhưng rất giàu vitamin A, C và các nguyên tố vi lượng cần thiết và có hàm lượng Iod cao. Một số tài liệu đề cập rong nho biển còn có khả năng kháng khuẩn, kháng nấm, có thể ngừa bệnh cao huyết áp và thấp khớp.

Phan Thế Hữu Toàn, CAND, 10/05/2009

Xem tất cả các thông tin kỹ thuật về trồng rong, rong biển

Thảo luận về kỹ thuật nuôi:

Xem thêm các thông tin có liên quan:

- Kỹ thuật nuôi tôm, cá và các loại thủy sản khác

DNTN VIỆT LINH
Địa chỉ: 71/14 Trần Phú, Phường 4, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh
Skype: vietlinhsaigon Messenger: vietlinhsaigon
Zalo/viber: 0902580018 Facebook: VietLinh
Email: vietlinh[vietlinh.vn], vietlinhsaigon[gmail.com]
TRANG TIN ĐIỆN TỬ VIỆT LINH - ĐI CÙNG NHÀ NÔNG
vietlinh.com.vn Giấy phép số 52/GP-BC do Cục Báo chí Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp ngày 29/4/2005
vietlinh.vn Giấy phép số 541/GP-CBC do Cục Báo chí Bộ Thông Tin và Truyền thông cấp ngày 30/11/2007
® Viet Linh giữ bản quyền, © Copyright 2000 vietlinh.vn

Việt Linh: Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, việc làm thủy sản, việc làm nông nghiệp, tuyển dụng, tìm việc, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.

Về đầu trang