Đại học Arizona (Hoa Kỳ) đã nghiên cứu và xác định ảnh hưởng của cá rô phi lên sự khống chế bệnh hoại tử gan tụy cấp ở tôm. Đối tượng dùng cho thử nghiệm là cá rô phi Đài Loan Oreochromis niloticus và tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei, vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp là dòng Vibrio parahaemolyticus.
Nghiên cứu được thực hiện bằng cách sử dụng các bể thủy tinh chứa 170 lít nước (độ mặn 20%o). Thí nghiệm 5 nghiệm thức (với 3 lần lặp lại) bao gồm: 1-Nghiệm thức A: đối chứng âm với các bể được chuẩn bị trong hai tuần và không có cá rô phi trước khi thả 15 con tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei vào mỗi bể. 2-Nghiệm thức B: các bể được chuẩn bị trong hai tuần với cá rô pni Đài Loan Oreochromis niloticus và sau đó cá được bắt ra trước khi thả tôm vào mỗi bể để tiến hành gây bệnh hoại tử gan tụy cấp. Thực nghiệm trong 10 ngày bằng cách đổ trực tiếp môi trường canh thang có nuôi cấy dòng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây bệnh hoại tử gan tụy cấp cho tới khi đạt mật độ vi khuẩn trong bể là 3x105 tế bào vi khuẩn/ml. 3-Nghiệm thức C: các bể được chuẩn bị trong hai tuần với cá rô phi. Sau đó, cá được đặt vào một lồng treo trong bể trước khi thả tôm và gây bệnh như nghiệm thức B. 4-Nghiệm thức D: các bể được chuẩn bị trong hai tuần không có cá rô phi, sau đó thả tôm và gây bệnh như nghiệm thức B. 5-Nghiệm thức E: đối chứng dương với các bể được đổ đầy nước muối có nồng độ 20%o một ngày trước khi thả tôm và gây bệnh như nghiệm thức B.
Kết quả thí nghiệm cho thấy: Sau 14 ngày chuẩn bị bể với mục đích kích thích tảo phát triển và duy trì một hệ vi sinh vật cân bằng trong các bể trước khi thả tôm như cách chuẩn bị ao tôm trong thực tế sản xuất. Mật độ vi khuẩn trong nước giữa 04 nghiệm thức A, B, C, D không có sự khác biệt đáng kể. Tuy nhiên, bước chuẩn bị bể trong 14 ngày này đã gây được mật độ vi khuẩn cao hơn mật độ vi khuẩn trong nước của nghiệm thức E (không có bước gây tảo trong 14 ngày) khoảng 10.000 lần. Sau 10 ngày gây bệnh thực nghiệm (trừ nghiệm thức đối chứng âm), tỷ lệ sống của các nghiệm thức có sự khác biệt rõ rệt. Tỷ lệ sống của các nghiệm thức A, B, C, D, E lần lượt là 97,78% - 91,11% - 6,67% - 20% - 0%.
Tỷ lệ sống của nghiệm thức đối chứng âm (nghiệm thức A) là 97,78% cho thấy các điều kiện môi trường thí nghiệm là phù hợp cho sự sống sót của tôm thí nghiệm. Trong khi đó, tỷ lệ sống sau 03 ngày gây bệnh của nghiệm thức đối chứng dương là 0% cho thấy độc lực rất cao của dòng vi khuẩn được sử dụng trong thí nghiệm gây bệnh. Tỷ lệ sống của nghiệm thức B (91,11%) cao hơn hẳn các nghiệm thức C, D, E. Mặc dù khuẩn lạc của dòng vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp được phân lập lại từ trong nước và bao tử của tôm được gây bệnh ở tất cả các nghiệm thức phân tích mô học cho thấy tỷ lệ cảm nhiễm của tôm với bệnh hoại tử gan tụy cấp cũng như mức độ bệnh tích của các nghiệm thức có sự tương quan với tỷ lệ sống của các nghiệm thức. Ngoài ra, bệnh tích hoại tử gan tụy cấp không tìm thấy trên gan tụy của tôm ở nghiệm thức A và B. Ngược lại, trên gan tụy của tôm của nghiệm thức C, D, E có sự xuất hiện của bệnh tích điển hình của bệnh hoại tử gan tụy cấp với các mức độ khác nhau.
Việc xác định mật độ vi khuẩn trong nước của các bể thí nghiệm cho thấy có sự sụt giảm đáng kể về mật độ vi khuẩn trong các nghiệm thức B, C, D so với mật độ vi khuẩn ban đầu được đưa vào bể tôm trong thí nghiệm gây bệnh thực nghiệm. Ngược lại, mật độ vi khuẩn trong nước của đối chứng dương cho thấy có sự gia tăng đáng kể về mật độ vi khuẩn so với lượng vi khuẩn đưa vào ban đầu trong thí nghiệm gây bệnh thực nghiệm. Kết quả này chứng minh rằng: Sự có mặt của hệ vi sinh tự nhiên trong nước được kích thích bởi khâu chuẩn bị bể có thể tương tác với dòng vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy cấp và sự cảm nhiễm bởi dòng vi khuẩn này.
Nghiên cứu này cũng đã chứng minh: Một hệ vi sinh khỏe mạnh và cân bằng với vi khuẩn và tảo trong nước được kích thích bởi những thực hành tốt trong nuôi tôm (ví dụ như sử dụng cá rô phi trong bể lắng trước khi bơm nước vào ao nuôi tôm) có thể đem lại những tác dụng tích cực, giúp khống chế sự bùng phát bệnh hoại tử gan tụy cấp.
Ngọc Thúy (theo Arizona) - Fisternet, 20/12/2013
Mới đây một nhóm nghiên cứu ở Philipin đã hướng dẫn một trại nuôi tôm thử nghiệm, nuôi luân canh kết hợp tiền xử lý sinh học (biologicalpre-treatment) và nuôi ghép cá rô phi với tôm trong một hệ thống được gọi là Tilapia Water Introduction on Prawn Systems (TIPS). Đây là phương pháp nuôi kết hợp cá rô phi với tôm như một kiểu nuôi luân canh hay một dạng xử lý nước trước bằng tác nhân sinh học như phương pháp nuôi ghép các loài. Ba ao được đưa vào nuôi thử nghiệm. Ban đầu các ao này chỉ nuôi đơn tôm, tuy nhiên do vi khuẩn phát sinh gây ra sự bùng nổ của các vi sinh vật làm tôm bị nhiễm bệnh. Các chủ trại nuôi tôm đã thực hiện nuôi chuyển đổi thay thế đối với các loài cá rô phi. Nuôi luân canh là một phương pháp để làm vệ sinh nước trước khi nuôi một loài khác, làm như vậy để giảm một cách tối đa sự phát sinh mầm bệnh.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng một lượng nước chứa với lượng thức ăn tự nhiên và giống cá rô phi chịu được nước mặn, đảm bảo nguồn nước cung cấp thường xuyên chất lượng tốt. Cá rô phi được thả trong nước này làm nước xanh, làm giảm sự phát triển của các vi sinh vật. Như thế là có được nước chất lượng tốt, dùng nguồn nước này đưa vào các ao nuôi tôm. Thả cá rô phi vào 4 lồng trong mỗi ao, với trọng lượng cá thể là 100g và tỷ lệ cá thả là 400kg/ha. Hậu ấu trùng tôm cũng được thả trong ao này với tỷ lệ 18 – 20 post larvae/m2. Kết quả thử nghiệm là có 2 trong 3 ao đạt được tỷ lệ sống trên 80% và sản lượng tôm thu hoạch là 5000 kg/ha. Còn một ao cho tỷ lệ sống thấp hơn, tuy nhiên đây cũng là một phương pháp nuôi tôm lý tưởng.
Hệ thống TIPS mới được kiểm tra dưới các điều kiện khác nhau ở các tỉnh Negros và Mindanao (Philipin) cho thấy, có hiệu quả cao trong việc ngăn chặn sự phát sinh vi sinh vật gây bệnh trong hệ thống ao nuôi tôm.
NNVN, 6/5/2004
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Việt Linh: Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, việc làm thủy sản, việc làm nông nghiệp, tuyển dụng, tìm việc, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.