Vừa qua, nhiều ao tôm trên địa bàn tỉnh Trà Vinh xuất hiện hện tượng tôm sú bị một căn bệnh lạ, tạm gọi là bệnh vảnh mang.
Trong lúc hoang mang, nhiều nông dân nuôi tôm đã nghi ngờ rằng bệnh này do thức ăn nuôi tôm gây ra. Thực tế có phải vậy không?
Theo TS Nguyễn Ngọc Phước (Khoa Thủy sản, ĐH Nông lâm Huế), đây là dạng bệnh mới xuất hiện trên tôm ở Việt Nam, nhưng trên thế giới, đã có những tài liệu ghi nhận về bệnh này. Do chưa có điều kiện tới Trà Vinh xem xét thực tế, lấy mẫu kiểm tra, nên TS Phước chưa thể khẳng định bệnh vểnh mang trên tôm sú ở Trà Vinh là do nguyên nhân gì. Nhưng ông cho rằng bệnh trên tôm có rất nhiều nguyên nhân gây ra. Do vậy, không nên vội vàng khẳng định về nguyên nhân gây bệnh.
Tôm bị vảnh mang ở Trà Vinh
Như đã nói ở trên, do đây là bệnh rất mới trên tôm ở Việt Nam nên chưa có tài liệu, nghiên cứu nào liên quan đến căn bệnh này. Qua sự giúp đỡ của một số nhà khoa học về bệnh thủy sản, chúng tôi đã tìm được một số tài liệu nước ngoài về một căn bệnh trên tôm với những biểu hiện tương tự.
Theo tài liệu của Hội đồng Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ, đây là bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio (Vibrio disease), là một hệ thống bệnh nghiêm trọng do vi khuẩn gây ra. Các vi khuẩn gây bệnh này là Vibrio alginolitucus, Vibrio anguillarum và Vibrio parahaemolyticus. Tôm nhiễm khuẩn có triệu chứng lờ đờ, hôn mê và bơi lội không bình thường. Các chân bơi và chân chèo có thể xuất hiện các đốm đỏ do quá trình gia tăng tổng hợp sắc tố, các đốt bụng có thể bị biến dạng nhẹ. Trường hợp tôm nhiễm bệnh nặng, nắp mang tôm sẽ bị vảnh lên và bị ăn mòn. Trong các trường hợp nặng hơn, có thể nhìn thấy các đốm đen trên vỏ đầu và bụng tôm. Bệnh xuất hiện cả ở tôm thẻ và tôm sú.
Ngày 1/5/2017, Bộ môn Bệnh học thủy sản (Khoa Thủy sản, ĐH Nông lâm TP HCM), đã về lấy mẫu tại một số ao nuôi có hiện tượng tôm sú bị vảnh mang ở huyện Cầu Ngang, Trà Vinh. Tại những ao này, tôm sú có các biểu hiện bệnh, gồm: Vỏ hơi mềm, đóng rong nhẹ; vỏ nắp mang bị bong ra và vảnh lên, bị mòn tạo sắc tố màu đen; mang dơ; một số tôm vỏ sần sùi giống rễ tre.
Đối chiếu giữa khảo sát của Bộ môn Bệnh học thủy sản với tài liệu của Hội đồng Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ, tôm sú bị vảnh mang ở Trà Vinh có những triệu chứng tương tự với căn bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio ở Ấn Độ.
Trong những mẫu nước ao, bùn đáy ao, gan tôm và ruột tôm mà Bộ môn bệnh học thủy sản đã thu thập, kết quả kiểm tra (vi khuẩn được phân lập trên môi trường Chromagar Vibrio) cho thấy mật độ vi khuẩn rất cao, nhất là với 2 khuẩn Vibrio alginolyticus và khuẩn Vibrio vulnificus/Vibrio cholerae.
Ở 1 ao, khuẩn Vibrio alginolyticus có mật độ 60 cfu/ml trong nước ao, 400 cfu/ml trong bùn đáy ao, 250 cfu/ml trong gan (tôm 1), 840 cfu/ml trong ruột (tôm 1), 0 cfu/ml trong gan (tôm 2), 5.040 cfu/ml trong ruột (tôm 2), 120 cfu/ml trong gan (tôm 3), 21.120 cfu/ml trong ruột (tôm 3), 380 cfu/ml trong gan (tôm 4), 8.200 cfu/ml trong ruột (tôm 4), 0 cfu/ml trong gan (tôm 5) và 15.160 cfu/ml trong ruột (tôm 5); khuẩn Vibrio vulnificus/Vibrio cholerae có mật độ 490 cfu/ml trong nước ao, 1.440 cfu/ml trong bùn đáy ao, 160 cfu/ml trong gan (tôm 1), 1.000 cfu/ml trong ruột (tôm 1), 0 cfu/ml trong gan (tôm 2), 3.600 cfu/ml trong ruột (tôm 2), 0 cfu/ml trong gan (tôm 3), 1.520 cfu/ml trong ruột (tôm 3), 50 cfu/ml trong gan (tôm 4), 0 cfu/ml trong ruột (tôm 4), 0 cfu/ml trong gan (tôm 5) và 1.400 cfu/ml trong ruột (tôm 5)
Ở 1 ao khác, khuẩn Vibrio alginolyticus có mật độ 120 cfu/ml trong nước ao, 520 cfu/ml trong bùn đáy ao, 1.300 cfu/ml trong gan (tôm 1), 1.280 cfu/ml trong ruột (tôm 1), 320 cfu/ml trong gan (tôm 2), 880 cfu/ml trong ruột (tôm 2), 570 cfu/ml trong gan (tôm 3), 250 cfu/ml trong ruột (tôm 3), 40 cfu/ml trong gan (tôm 4), 120 cfu/ml trong ruột (tôm 4), 400 cfu/ml trong gan (tôm 5) và 1600 cfu/ml trong ruột (tôm 5); khuẩn Vibrio vulnificus/Vibrio cholerae có mật độ 1.130 cfu/ml trong nước ao, 2.240 cfu/ml trong bùn đáy ao, 480 cfu/ml trong gan (tôm 1), 5.920 cfu/ml trong ruột (tôm 1), 190 cfu/ml trong gan (tôm 2), 5.880 cfu/ml trong ruột (tôm 2), 490 cfu/ml trong gan (tôm 3), 90 cfu/ml trong ruột (tôm 3), 520 cfu/ml trong gan (tôm 4), 760 cfu/ml trong ruột (tôm 4), 580 cfu/ml trong gan (tôm 5) và 9.760 cfu/ml trong ruột (tôm 5).
Như vậy, kết quả kiểm tra vi khuẩn của Bộ môn Bệnh học thủy sản cho thấy vi khuẩn Vibrio alginolyticus và Vibrio vulnificus/Vibrio cholerae xuất hiện với mật độ cao trong các mẫu nước, bùn, gan và ruột tôm. Mà trong đó, vi khuẩn Vibrio alginolyticus đã được Hội đồng Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ khẳng định là tác nhân gây bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio với những triệu chứng tương tự như bệnh vảnh mang vừa xuất hiện ở Trà Vinh.
Trong khi chờ cơ quan chức năng, các viện, trường, nhà khoa học, làm rõ nguyên nhân gây bệnh vảnh mang trên tôm, nông dân cần chủ động thực hiện các biện pháp phòng, trị bệnh. Cũng theo tài liệu của Hội đồng Nghiên cứu Nông nghiệp Ấn Độ, biện pháp ngăn ngừa đối với bệnh nhiễm khuẩn do Vibrio là duy trì chất lượng nước tốt và giảm lượng chất hữu cơ thông qua việc tăng cường thay nước cho ao nuôi.
Biện pháp điều trị là tăng cường thay nước bằng nguồn nước mặn và sạch; cho tôm ăn thức ăn có chứa các chất kháng sinh (đã được xác định độ nhạy cảm của mầm bệnh bằng kháng sinh đồ). Ví dụ: cho ăn thức ăn có chứa Oxytetracyline với hàm lượng 1.5g/kg, tỷ lệ cho ăn 2 - 10% trọng lượng tôm trong vòng 10 - 14 ngày, kết hợp với việc quản lý nước ao hợp lý. Lưu ý cần có thời gian cách ly trước thu hoạch (25 - 30 ngày) để bất hoạt và làm vô hiệu tác dụng có hại của kháng sinh.
Thanh Sơn - Nông Nghiệp VN, 11/05/2017
Nhấn vào đây để xem tất cả thông tin kỹ thuật về bệnh tôm
Nhấn vào đây để xem tất cả thảo luận kỹ thuật về nuôi tôm
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Việt Linh: Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, việc làm thủy sản, việc làm nông nghiệp, tuyển dụng, tìm việc, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.