Bằng kỹ thuật chế biến mới hiện nay, với ưu điểm giữ chất dinh dưỡng và chịu nước tốt hơn, thức ăn dinh dưỡng dạng mảnh có thể thay thế hầu hết artemia trong thức ăn cho hậu ấu trùng. Dựa trên phân tích mức tăng trưởng của tôm, các nhà nghiên cứu thuộc Viện Công nghệ INVE (Bỉ) cho thấy rằng lượng thay thế thức ăn dạng mảnh 40% có thể cho phép các trại ương giảm sự phụ thuộc vào thức ăn tươi sống và giảm chi phí.
Thay thế thức ăn tươi sống
Tập tính ăn và nhu cầu về dinh dưỡng của hậu ấu trùng tôm (PL) thời kỳ đầu, (giai đoạn giữa thời kỳ ấu trùng và tôm bột) có thể tóm tắt như sau : Tập tính của hậu ấu trùng không thay đổi nhiều trong suốt giai đoạn ấu trùng. Có thể hoàn toàn cho chúng ăn bằng thức ăn nhân tạo mặc dù muốn đạt được tỷ lệ tăng trưởng tốt nhất thì phải cho ăn kết hợp với artemia và artemia đã được làm giàu. Sự phụ thuộc vào artemia là mối quan tâm đối với các trại ương bởi những rủi ro do thiếu và giá trứng artemia tăng trên thế giới, sự thay đổi trong giá trị dinh dưỡng và khả năng truyền bệnh. Theo kết quả điều tra vào năm 2001, có đến 80% các trại ương đang giảm việc sử dụng artemia trong hai năm 2000 và 2001. Tuy nhiên, do việc sử dụng thức ăn thay thế có chất lượng thấp đã làm cho tỷ lệ sống thấp và chất lượng hậu ấu trùng kém. Vì vậy, hiện nay, đã có nhiều nỗ lực nhằm tìm kiếm loại thức ăn có chi phí thấp đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của hậu ấu trùng.
Thức ăn dạng mảnh
Trong số thức ăn nhân tạo cho hậu ấu trùng, thức ăn dạng mảnh đã được quan tâm đáng kể trong ngành công nghiệp nuôi tôm. Có hơn 40% trại ương đã sử dụng thức ăn dạng mảnh. Về mặt kỹ thuật, thức ăn dạng mảnh có công nghệ chế biến không phức tạp. Thành phần thức ăn dạng mảnh bao gồm bột giã nhỏ và nước để tạo thành bột đặc. Sau khi thêm chất dính và trộn đều, chúng được bơm qua máy tạo mảnh, thường là một máy sấy hơi hình trống. Kết quả là chúng được tạo thành mảnh vụn rất nhỏ hoặc các mảnh vụn to. Những mảnh vụn to được đưa qua một cái sàng ở trại giống (có thể điều chỉnh cỡ sàng theo mong muốn). Những mảnh thức ăn to này nổi nhẹ trên mặt nước lâu hơn mảnh thức ăn vụn.
Thức ăn dạng mảnh dinh dưỡng
Việc ép thức ăn dạng mảnh đòi hỏi áp dụng một số tiến bộ kỹ thuật trong quá trình sản xuất. Mức chế biến tinh chưa cần thiết, nhưng trước hết chúng ta có khả năng tăng mức protein biển và các chất dinh dưỡng thiết yếu nhiều hơn trong thành phần thức ăn. Ngoài ra, nhiệt độ và thời gian sấy ép thức ăn bằng thiết bị hơi hình trống giữ được nhiều dinh dưỡng trong thức ăn hơn so với các loại máy ép thông thường. Việc sản xuất thức ăn mảnh giàu dinh dưỡng đòi hỏi phải lựa chọn nguyên liệu cẩn thận và áp dụng công nghệ tiên tiến để giảm thiểu việc mất dinh dưỡng trong thức ăn (như vitamin) do giảm nhiệt độ trong quá trình chế biến.
Chế biến thức ăn dạng mảnh
Thức ăn dạng mảnh giàu dinh dưỡng có thể được sản xuất bằng một số kỹ thuật mới. Trước đây, công nghệ chế biến sử dụng loại máy sấy trống kép sản xuất ra thức ăn giòn có khả năng chịu nước. Máy sấy này có hai trống quay sát nhau.
Hỗn hợp thức ăn được lăn ép trên bề mặt giữa 2 trống. Thời gian cán sản phẩm khoảng 1 phút và duy trì nhiệt độ ở 135 0C bằng hơi nóng nén (nhiệt độ sản phẩm lên tới 1250C). Quá trình này có thể làm mất chất lượng thức ăn đáng kể do nhiệt độ cao.
Hiện nay, công nghệ mới sử dụng loại máy sấy Window Khúc xạ (RWD) sản xuất ra nhiều thức ăn dạng mảnh có khả năng giữ ổn định được rất lâu trong nước. Công nghệ Window Khúc xạ đã được công ty Công nghệ MCD (Mỹ) phát minh, chế ra những mảnh vụn thức ăn có khả năng giữ bền lâu trong nước. Phương pháp này hút hơi ẩm nhẹ nhàng từ hỗn hợp thức ăn trong thời gian 3 phút với nhiệt độ bề mặt 950C (nhiệt độ sản phẩm lên tới 800C). Các sản phẩm sấy khô hình trống cải tiến giữ được chất dinh dưỡng cao hơn nhiều so với các sản phẩm làm lạnh khô. Màu sắc và mùi vị của các sản phẩm này cũng được bảo quản một cách tối đa.
Thử nghiệm thức ăn
Qua thử nghiệm, có 2 công thức thức ăn được lựa chọn và việc chế biến thức ăn dạng mảnh bằng cả 2 kỹ thuật cũ và mới đã được so sánh. Các thành phần thức ăn được lựa chọn theo tiêu chí đạt chất lượng cao như : bột cá biển, chất chiết và dầu có nguồn gốc hải sản và artemia, ngoài ra còn bổ sung một lượng lớn các dinh dưỡng cần thiết như vitamin, astaxanthin, n-3 HUFA, cholesterol và lexithin. Tất cả thức ăn dạng mảnh đều có khả năng giữ bền trong nước và rất dễ tiêu hoá. Những thức ăn này được sàng lọc qua 1 tấm lưới để lấy cỡ mảnh theo ý muốn và được đưa vào các bể nuôi cho ăn khoảng 4 hoặc 6 lần với khẩu phần ăn đều nhau trong mỗi ngày.
Bảng 1 : So sánh thành phần dinh dưỡng của hai phương pháp chế biến thức ăn dạng mảnh
Thành phần dinh dưỡng | Dạng mảnh sấy trống (hàm lượng khô %) | Sấy cải tiến nhiệt độ thấp (hàm lượng chất khô %) | Chênh lệch % |
EPA | 0,89 | 1,00 | + 12 |
DHA | 1,48 | 1,71 | + 13 |
Vitamin A | 0,00144 | 0,00152 | + 6 |
Vitamin E | 0,1388 | 0,1269 | - 7 |
Vitamin C | 0,1326 | 0,1904 | + 44 |
Giá trị sinh học của thức ăn dạng mảnh
So sánh sự tăng trưởng của ấu trùng tôm được nuôi bằng thức ăn dạng mảnh chế biến theo 2 công nghệ cũ và mới với sự tăng trưởng của ấu trùng tôm được nuôi bằng artemia nauplii (ART) và thức ăn hạt siêu nhỏ (REF) (Loại thức ăn siêu nhỏ gần đây được phổ biến rộng rãi cho kết quả tốt trong nuôi ấu trùng tôm). Kết quả so sánh cho thấy tỷ lệ sống và tăng trưởng của ấu trùng tôm nuôi bằng 2 loại thức ăn dạng mảnh đều cao. Tỷ lệ tăng trưởng của ấu trùng tôm ăn thức ăn dạng mảnh theo công nghệ mới ở nhiệt độ thấp không khác so với ấu trùng ăn artemia. Ðồng thời kết quả cũng thấy sinh khối trong bể cao hơn đáng kể (P<0,05) khi cho ăn các thức ăn dạng mảnh chế biến kỹ thuật mới so với thức ăn dạng mảnh chế biến bằng kỹ thuật cũ.
Bảng 2 : Thành phần dinh dưỡng của thức ăn dạng mảnh chế biến theo phương thức mới nhiệt độ thấp (%)
Nước | 8 |
Protein | 50 |
Lipit | 12,5 |
Fibre | 3 |
Tro | 11 |
n-3 HUFAs | 2 |
EPA | 0,6 |
DHA | 1,2 |
Photpholipit | 3, |
Cholesterol | 0,5 |
Vitamin C | 0,4 |
Vitamin E | 0,05 |
Choline | 0,4 |
Inositol | 0,2 |
Nuôi quy mô thương mại
Kết quả kiểm tra tiêu chuẩn sản phẩm mới lần cuối cùng trước khi đưa ra thị trường như sau : Nếu thay thế 40% artemia bằng thức ăn dạng mảnh công nghệ mới với nhiệt độ thấp thì sẽ nâng cao được mức tăng trưởng của hậu ấu trùng tôm sú (P.monodon) (P<0,05). Tỷ lệ sống của hậu ấu trùng tôm không khác nhau nhiều giữa các loại thức ăn được sử dụng. Tỷ lệ cho ăn thức ăn dạng mảnh cao hơn không được kiểm tra, nhưng các tác giả khẳng định rằng thức ăn dạng mảnh chế biến cải tiến có thể thay thế artemia tới 65%.
Năm 1999, trong một nghiên cứu hiệu quả của thức ăn hạt siêu nhỏ đối với các tỷ lệ thay thế là 25, 50, 75 và 100% và cho kết quả tỷ lệ thay thế artemia nghịch với tỷ lệ tăng trưởng của ấu trùng tôm chân trắng. Trong các nghiên cứu khác vào thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 đều cho kết quả thất vọng như nhau. Ngược lại, những kết quả nghiên cứu hiện nay rất khả quan với những thức ăn dạng mảnh giàu dinh dưỡng đạt tiêu chuẩn chất lượng cao.
Kết luận
Việc sản xuất thức ăn dạng mảnh giàu dinh dưỡng bằng kỹ thuật chế biến mới có giá trị sinh học cao hơn đáng kể so với thức ăn dạng mảnh sản xuất bằng máy sấy hình trống trước đây. Thức ăn dạng mảnh giàu dinh dưỡng có thể thay thế phần lớn artemia trong thức ăn cho hậu ấu trùng tôm. Tỷ lệ thay thế 40% có thể giúp các chủ trại giống tôm giảm sự phụ thuộc vào nguồn thức ăn tươi sống.
Dịch từ : Asian Aquaculture magazine - T1-T2/2003
Tap chi KHCNTS 7/2003
Bệnh phân trắng không làm tôm chết nhanh và chết hàng loạt như bệnh đốm trắng hay bệnh gan tụy cấp, nhưng nếu không khống chế sẽ gây ra những thiệt hại to lớn cho người nuôi tôm...
Việt Linh: Thông tin nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng, kỹ thuật, chế biến, nông sản, trồng trọt, chăn nuôi, thị trường, nuôi tôm, nuôi cá, gia súc, gia cầm, việc làm, việc làm thủy sản, việc làm nông nghiệp, tuyển dụng, tìm việc, mua bán, vật tư thiết bị, môi trường, phân bón, thuốc bảo bệ thực vật, thuốc trừ sâu, thức ăn thủy sản, thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, cây công nghiệp, cây hoa màu, cây lương thực, cây hoa cảnh, cây thuốc, dược liệu, sinh vật cảnh, phong lan, nông thôn, nông dân, giải trí. All of aquaculture, agriculture, seafood and aquarium: technology, market, services, information and news.